Các kỹ thuật

Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 1125
Tổng truy cập : 557,732

Nông - Lâm - Ngư nghiệp khác

Phòng một số bệnh do vi khuẩn ở tôm sú

Vi khuẩn là tác nhân thường xuyên có mặt trong ao nuôi, cũng có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm khác nhau cho các giai đoạn phát triển của tôm. Hướng dẫn biện pháp phòng một số bệnh do vi khuẩn ở tôm sú: bệnh vi khuẩn phát sáng; bệnh thoái hóa vỏ, bệnh đốm nâu, bệnh hoại chi; tôm bị rụng râu, phồng đuôi, đốm đen, đốm nâu; bệnh mềm vỏ kinh niên; bệnh đầu vàng.


1. Bệnh vi khuẩn phát sáng

- Các giai đoạn bị nhiễm: trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng, tôm trưởng thành.

- Triệu chứng: ấu trùng yếu đi và có màu trắng đục. Tôm con và tôm trưởng thành bị nhiễm bệnh phát ra ánh sáng màu xanh lục liên tục khi ta quan sát trong chỗ tối. Khi nhìn dưới kính hiển vi, các mô bên trong của ấu trùng này chứa đầy các vi khuẩn bơi rất nhanh. Tình trạng tôm bị nhiễm bệnh sẽ dẫn đến tử vong cao lên gần 100% số bị nhiễm.

- Biện pháp phòng ngừa: tránh sự xâm nhập của vi khuẩn phát quang vào trong hệ thống ấp trứng (sử dụng nước nhiễm xạ cực tím, xử lý bằng Clo,…).
Chấp hành nghiêm ngặt các quy trình vệ sinh trước và trong quá trình nuôi. Lọc sạch cặn và tạp chất ở đấy bể nuôi, hồ nuôi vì đó là môi trường tốt cho vi khuẩn sinh trưởng. Tẩy trùng các ấu trùng bị nhiễm trước khi loại bỏ chúng.

- Cách chữa trị: Mỗi ngày phải thay nước từ 80 – 90%.

2. Bệnh thoái hóa vỏ, bệnh đốm nâu, bệnh hoại chi

- Các giai đoạn bị nhiễm: ấu trùng, hậu ấu trùng, tôm con, tôm trưởng thành

- Triệu chứng và dấu hiệu: xuất hiện vết thoái hóa từ hơi nâu ngả sang đen trên vỏ, phần bụng, phần phụ đầu, đuôi, mang và các chi.

Vết phỏng chứa dịch gelatin màu xanh tím có thể phát triển trên vỏ và phần bụng, phần cuối đuôi, phần phụ đầu. Vết phỏng này có thể lan sang phần bên dưới 2 bên vỏ, tạo thành một khối u.

Ở giai đoạn ấu trùng, tôm con, tôm trưởng thành, các chi bị nhiễm bệnh có hình dạng như đầu mẩu tàn thuốc.

- Phương pháp phòng ngừa: sử dụng nước có chất lượng tốt.

Giảm hàm lượng các chất hữu cơ trong nước đến mức thấp nhất bằng cách loại bỏ các chất cặn bã, tôm chết, vỏ tôm đã thay vì đó là nơi ẩn náu của vi khuẩn.

Cho ăn đầy đủ. Giảm tối đa việc vớt và thả tôm, tránh nuôi với mật độ quá lớn (trên 30 con P15/m2). Tránh gây thương tích trên vỏ tôm

- Cách chữa trị: kích thích sự thay vỏ của tôm. Thay nước sạch, dùng vôi sống CaCO3 để lắng tụ chất vẩn hữu cơ và tăng cường sục khí.

Tăng sức đề kháng cho tôm bằng cách bổ sung Vitamin C hàng ngày vào thức ăn cho tôm.

Có thể dùng một số kháng sinh liều lượng 40 – 50 mg/l thức ăn, liên tục trong 4 – 5 ngày. Dùng BKC phun trực tiếp xuống ao với liều lượng 0,4 – 0,5 ml/m3 kết hợp mở máy quạt nước hoặc sục khí.

Riêng bệnh phân trắng thường phát sinh khi nuôi tôm trên 60 ngày tuổi, nguyên nhân do nhiễm vi khuẩn Vibrio.

Để phòng bệnh cho tôm cần phải giữ môi trường nước ổn định, giảm hàm lượng hữu cơ trong ao và đáy ao bằng các loại men vi sinh phân hủy chất thải, giảm sinh khối tảo bằng các hóa chất diệt tảo.

Khi tôm bị bệnh cần thay nhiều nước, dùng Riato liều lượng 5 – 10 g/kg thức ăn cho ăn liên tục từ 3 – 5 ngày.

3. Tôm bị rụng râu, phồng đuôi, đốm đen, đốm nâu

- Nguyên nhân: là do các vi khuẩn Vibrio, Aeromonas, Pseudomonas...gây bệnh có trong hồ nuôi tôm.

- Để chữa trị: sử dụng Virkon 0,5-0,9ppm (0,5-0,9kg/1000m3 nước), hoà nước rồi tại đều xuống ao. Liều dùng này còn có thể trị được các bệnh do vi khuẩn như bệnh phát sáng, phồng đuôi, đốm đen...

- Để phòng bệnh đốm trắng và các bệnh do vi khuẩn: Sử dụng Virkon 0,3ppm (0,3kg/1000m3 nước), hoà nước rồi tại đều xuống ao, định kì 10 ngày 1 lần. - hoặc: sử dụng Virkon 0,5ppm (0,5kg/1000m3 nước), hoà nước rồi tại đều xuống ao, định kì 15 ngày 1 lần. - xử lí kĩ ao nuôi trước khi thả tôm. - ngăn không cho nhiễm bệnh từ các ao nuôi lân cận (sử dụng riêng vợt, chài, vó... cho từng ao; sát trùng các dụng cụ dùng chung).

Ngoài ra có thể sử dụng các loại kháng sinh khác để phòng và chữa bệnh đứt râu: - Anti-vibrio F/S2, Flume bath F/S2, Flumecol-B, Flumecol-T, Vime-antidisea, Vimecol for shrimp của Vemedim Vietnam (7 đường 3/2 - Cần Thơ) .

Có thể sử dụng định kì các vitamin để tăng sức đề kháng cho tôm.

4. Bệnh mềm vỏ kinh niên

- Biểu hiện: Bệnh mềm vỏ kinh niên là bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thương phẩm. Biểu hiện của bệnh là sau khi lột xác, vỏ tôm không cứng lại được, vỏ thường bị nhăn nheo, dễ rách nát nên dễ bị cảm nhiễm của các tác nhân gây bệnh, tôm có vỏ mềm yếu, vùi mình dạt bờ. Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng mềm vỏ của tôm.

- Nguyên nhân: - Do trong thức ăn dùng nuôi tôm thiếu chất khoáng hoặc thiếu một số vitamin, nhất là vitamin D thúc đẩy quá trình hấp thụ các chất khoáng. Cũng có thể thức ăn kém chất lượng, ôi thiu hoặc cho ăn thiếu.

Trong ao có nhiều chất độc, như các khí độc sinh ra do sự phân huỷ của các chất hữu cơ, chất độc sinh ra do tảo độc hoặc chất độc do nguồn nước thải công nghiệp, sinh hoạt đặc biệt là thuốc trừ sâu trong nông nghiệp. -Nuôi tôm trong điều kiện môi trường có nhiều biến động gây sốc làm rối loạn hoạt động trao đổi chất của tôm cũng gây ra mềm vỏ.

- Phòng trị: Từ nguyên nhân gây mềm vỏ như đã nêu ở trên, cần ngăn chặn hiện tượng này cần quan tâm đến vấn đề sau:

Dùng thức ăn có chất lượng tốt, có hàm lượng P: Ca là 1: 1. Bổ sung một lượng Vitamin tổng hợp, không nuôi mật độ quá cao.

Đảm bảo độ pH 7,5 đến 8,5 trong suốt quá trình nuôi.

Tránh nguồn nước thải công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt chảy vào ao nuôi, tránh hiện tượng tảo nở hoa gây biến động điều kiện môi trường.

5. Bệnh đầu vàng (Yellow head disease)

Bệnh đầu vàng xuất hiện trên tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm rảo, tôm rằn và nhiều loại tôm khác tại Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ... Ở Việt Nam, tôm nhiễm bệnh đầu vàng nhiều lúc thời tiết thay đổi lúc giao mùa, ở những vùng nuôi ven biển độ mặn cao.

- Triệu chứng:

Tôm ăn nhiều khác thường trong vài ngày, rồi bỏ ăn đột ngột. Sau đó 1-2 ngày tôm bơi lờ đờ không định hướng trên mặt nước hoặc ven bờ, bám vào bờ.

Phần đầu ngực, gan, tụy chuyển màu vàng, gan có thể có màu trắng nhạt, vàng nhạt hoặc nâu

Thân tôm có màu nhợt nhạt

Tôm chết rải rác trong vó rồi chết với mức độ tăng dần

Tôm chết rất nhanh trong vòng 3-5 ngày (có thể chết gần 100%) sau khi xuất hiện các triệu chứng.

- Phương pháp chẩn đoán bệnh:

Nhận biết triệu chứng bệnh.

Nhuộm màu mô bào, tế bào máu nhận thấy nhân tế bào bị thoái hóa đông đặc.

Phân tích PCR.

- Nguyên nhân: Bệnh do virus YHV (yellow head virus) là virus có acid nhân RNA chuỗi đơn, hình que, kích thước 44 x 173 nm, thuộc loài Nidovirales, họ Ronaviridae, chi Okavirus.

- Lây truyền bệnh: Chủ yếu lây truyền theo hàng ngang, do có vật chủ trung gian mang mầm bệnh vào môi trường nước.

- Phòng và trị bệnh: Bệnh đầu vàng chưa có thuốc chữa.

Phòng ngừa và ngăn chặn bằng cách chọn tôm giống sạch bệnh (qua kiểm tra PCR), diệt khuẩn và diệt vật chủ mang mầm bệnh trong ao và nước. Không nuôi mật độ quá cao. Luôn cung cấp đủ oxy cho ao nuôi. Giữ môi trường ổn định.


15340-ntm.002974_bien-phap-phong-mot-so-benh-do-vi-khuan-o-tom-su.pdf