Ngày 26.6.1959, Ban Thường vụ Thành ủy thành phố Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết số 167/NQ-TU về việc thành lập Ban Kỹ thuật thành phố Hải Phòng với tư cách là một cơ quan trực thuộc ủy ban Hành chính thành phố, đồng thời là một Ban nghiên cứu giúp Thành ủy lãnh đạo công tác khoa học và kỹ thuật của địa phương. Từ đó tới nay, cơ quan quản lý KH&CN thành phố Hải Phòng đã trải qua chặng đường phát triển với tên gọi đã nhiều lần thay đổi qua các thời kỳ, gắn liền với chức năng nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Suốt 50 năm không ngừng phấn đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố và sự chỉ đạo của Bộ KH&CN, Sở KH&CN Hải Phòng đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, đề xuất mô hình tổ chức và phương thức hoạt động theo hướng ngày càng hoàn thiện, đến nay đã thực sự trưởng thành về mọi mặt, đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển thành phố Hải Phòng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, thể hiện qua các mặt chủ yếu:
Thứ nhất, thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu, tư vấn cho Thành ủy, HĐND, UBND thành phố trong lĩnh vực KH&CN
Trong suốt quá trình phát triển và đặc biệt trong những năm gần đây, Sở KH&CN Hải Phòng luôn đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tham mưu tổng hợp, nắm bắt thực tiễn hoạt động và các xu thế phát triển, tập hợp lực lượng cán bộ để tham mưu, đề xuất, cung cấp những luận cứ khoa học cho các cấp uỷ đảng, chính quyền trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội, quản lý nhà nước nói chung, trong lĩnh vực KH&CN nói riêng. Một số văn bản quan trọng mà Sở đã tham mưu, chủ trì, phối hợp với các ban, ngành có liên quan dự thảo phục vụ Thành ủy, HĐND ra Nghị quyết, UBND thành phố ban hành quyết định triển khai thực hiện trong những năm gần đây phải kể tới là: Chương trình hành động của thành phố thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khoá IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) về phương hướng phát triển KH&CN năm 2002, 2005 và đến 2010; Chiến lược bảo vệ môi trường thành phố đến năm 2010; Chiến lược phát triển KH&CN thành phố đến 2010, tầm nhìn 2020; Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH thành phố giai đoạn đến 2010, định hướng đến năm 2020; Đề án phát triển thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường KH&CN thành phố Hải Phòng đến năm 2020; Chương trình hành động của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ CNH, HĐH...
Đặc biệt, Sở đã tham gia đóng góp những luận cứ cho việc dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XI, XII. Năm 2004 đã tham mưu cho Thành ủy thành lập Chương trình nghiên cứu khoa học cấp thành phố phục vụ nghiên cứu, biên soạn dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII và sau đó (năm 2006) là Chương trình nghiên cứu khoa học cấp thành phố phục vụ triển khai Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ này.
Ngoài ra, Sở đã tham mưu cho UBND thành phố ban hành các quy định về một số chính sách khuyến khích hoạt động KH&CN, Giải thưởng khoa học Nguyễn Bỉnh Khiêm; các văn bản pháp quy về quản lý, triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R&D), quản lý sở hữu trí tuệ (SHTT), quản lý công nghệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TCĐLCL)...
Thứ hai, từng bước hoàn thiện thể chế, cải tiến phương thức và nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về KH&CN trên địa bàn thành phố
Về quản lý các nhiệm vụ R&D: Xuất phát từ yêu cầu, tính chất quản lý của từng thời kỳ, Sở KH&CN đã tiến hành xây dựng các quy định về thủ tục, biểu mẫu; xây dựng những cơ chế mới nhằm từng bước nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về lĩnh vực này, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội thành phố trong mỗi thời kỳ. Đến nay, công tác quản lý các nhiệm vụ R&D đã có những đổi mới quan trọng, mang tính đột phá, được tiến hành đồng bộ, với nhiều loại hình theo cơ cấu kết hợp nhiều trình độ, nhiều cấp (từ cấp cơ sở tới cấp thành phố), từ khâu xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch đến đánh giá, nghiệm thu và áp dụng kết quả vào sản xuất, đời sống.
Các nhiệm vụ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn tập trung nghiên cứu về con người Hải Phòng trong tiến trình CNH, HĐH; những mô hình và giải pháp phục vụ phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội; xây dựng các luận cứ, mô hình và giải pháp thực hiện đổi mới hệ thống chính trị; đảm bảo an ninh - quốc phòng; phát triển nguồn nhân lực; bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị truyền thống trên địa bàn… Các nhiệm vụ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên tập trung vào các đề tài điều tra cơ bản và sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Nhiều kết quả nghiên cứu điều tra cơ bản đã được sử dụng làm căn cứ xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của thành phố. Các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công nghệ tập trung vào nghiên cứu ứng dụng, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động trong các lĩnh vực sản xuất. Nhiều kết quả nghiên cứu đã mở ra hướng đi mới, phát triển sản xuất của doanh nghiệp, thay thế hàng nhập khẩu.
Các đề tài/dự án được tập trung trong các chương trình KH&CN có mục tiêu của thành phố nhằm gắn bó chặt chẽ với sản xuất và đời sống, lấy nghiên cứu ứng dụng là chính, đồng thời tập trung vào một số lĩnh vực trọng điểm, công nghệ cao. Số lượng các đề tài nghiên cứu mang tính cơ bản đã giảm nhiều, các dự án ứng dụng và sản xuất thử nghiệm phát triển mạnh, đem lại hiệu quả thiết thực.
Về quản lý công nghệ: Bên cạnh việc tham gia nhận xét, thẩm tra công nghệ hàng trăm dự án đầu tư trong và ngoài nước trên địa bàn thành phố, tham mưu cho UBND thành phố trong việc ra các quyết định đầu tư hàng năm, Sở KH&CN Hải Phòng đã hết sức chú trọng việc định hướng đầu tư đổi mới công nghệ và tạo lập, phát triển thị trường công nghệ trên địa bàn.
Với chủ trương thực hiện cơ cấu công nghệ kết hợp nhiều trình độ, gắn hiệu quả kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp được khuyến khích đổi mới công nghệ, đưa nhanh những công nghệ tiên tiến vào sản xuất để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vì thế, tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ dựa trên năm sản xuất của Hải Phòng đạt khá cao. Việc đầu tư đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ đã góp phần giúp một số ngành trọng điểm của thành phố có được mức tăng trưởng đạt tốc độ đề ra cũng như đạt được các yêu cầu về chất lượng sản phẩm (đóng tàu, sản xuất thép, cơ khí, xi măng, giày dép, sản xuất chế biến thực phẩm...). Nhờ đó, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 18-20%/năm, đóng góp quan trọng cho chỉ tiêu tăng trưởng giá trị tổng sản phẩm của thành phố.
Để giúp thành phố có được bức tranh về mặt bằng công nghệ chung, làm căn cứ khoa học cho việc xem xét các phương án đầu tư đổi mới nâng cao trình độ công nghệ, Sở đã tổ chức đánh giá trình độ công nghệ trong một số lĩnh vực. Đặc biệt năm 2004, được sự hỗ trợ về nhân lực và kinh phí của Bộ KH&CN, Sở đang triển khai tốt đề án: “Đánh giá thực trạng và xây dựng cơ sở dữ liệu về năng lực công nghệ trên địa bàn Hải Phòng”.
Các hoạt động chuyển giao công nghệ và phát triển thị trường công nghệ được đẩy mạnh thông qua các hoạt động: Sáng tạo các công nghệ nội sinh; nhập và chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài; triển khai các chương trình KH&CN có mục tiêu. Hải Phòng cũng đã nghiên cứu xây dựng Quy hoạch phát triển thị trường KH&CN Hải Phòng đến năm 2010 và định hướng đến 2020, Đề án phát triển thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường KH&CN của thành phố. Đặc biệt, cuối năm 2007, Trung tâm Thông tin KH&CN Hải Phòng đã được giao nhiệm vụ triển khai Dự án xây dựng thử nghiệm Sàn Giao dịch công nghệ và thiết bị Hải Phòng. Ngày 15.1.2008, Sàn đã được khai trương và đưa vào hoạt động thử nghiệm. Ngày 23.10.2008, UBND thành phố đã có Quyết định số 1801/QĐ-UBND bổ sung nhiệm vụ tư vấn môi giới công nghệ và hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho Trung tâm và cho phép thành lập Sàn Giao dịch công nghệ và thiết bị thuộc Trung tâm với tư cách là đơn vị sự nghiệp có thu có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng.
Công tác SHTT, sáng kiến - cải tiến kỹ thuật: Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức về việc xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp, tăng cường cơ sở dữ liệu về nhãn hiệu hàng hoá phục vụ giám định và tra cứu, khai thác cơ sở dữ liệu sáng chế, giải pháp hữu ích được đặc biệt chú trọng. Nhận thức về vai trò của SHTT trong việc đảm bảo được ưu thế cạnh tranh khi hội nhập của cộng đồng nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng được nâng lên rõ rệt. Công tác SHTT đã đi vào hoạt động có nề nếp và chiều sâu. Thành phố đã ban hành các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức đăng ký bảo hộ các đối tượng SHTT.
5 năm trở lại đây là giai đoạn phát triển đột biến về số lượng đơn vị xác lập bảo hộ quyền SHTT: Giai đoạn 1996-2000, trung bình mỗi năm thành phố chỉ có từ 5-20 đơn vị được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Nhưng trong 5 năm (2001-2005), số lượng văn bằng bảo hộ (chủ yếu là nhãn hiệu hàng hoá) là 452, tăng gấp 2,4 lần của cả 15 năm trước, đặc biệt 3 năm 2006-2008 đã có thêm 577 văn bằng bảo hộ. Một số sản phẩm của Hải Phòng đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại nước ngoài như: Thái Lan, Myanma, Lào, Campuchia và Trung Quốc. Đến hết quý I/2009, toàn thành phố được cấp 1.081 văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Công tác tổ chức phối hợp chỉ đạo hoạt động sáng kiến trên địa bàn từng bước được triển khai có hiệu quả. Hoạt động sáng kiến - cải tiến kỹ thuật được duy trì, phát huy và phát triển rộng rãi với hàng nghìn sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, làm lợi hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Sở KH&CN cũng tham gia, phối hợp với Liên đoàn Lao động thành phố xét duyệt sáng kiến để cấp bằng “Lao động sáng tạo”; phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố hướng dẫn các tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia có hiệu quả Hội thi Sáng tạo kỹ thuật toàn quốc, Giải thưởng Sáng tạo KH&CN Việt Nam…
Về quản lý TCĐLCL: Hoạt động quản lý TCĐLCL đã có nhiều tác động tích cực đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, chống gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và trật tự trong sản xuất kinh doanh. Hàng năm, Chi cục TCĐLCL Hải Phòng chỉ đạo các cơ sở, doanh nghiệp xây dựng, công bố và áp dụng hàng trăm tiêu chuẩn cơ sở; hướng dẫn các cơ sở, doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến, mã số mã vạch vào sản xuất kinh doanh, áp dụng TCVN ISO 9001: 2000 trong các cơ quan hành chính... Đến cuối năm 2008, tại thành phố đã áp dụng 2.061 tiêu chuẩn, trong đó có 119 tiêu chuẩn nước ngoài; 265 tổ chức, đơn vị được cấp chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Hệ thống chuẩn đo lường cao nhất của địa phương đã được nâng cấp và từng bước được bổ sung, đến nay đã có đủ năng lực phục vụ quản lý 8 lĩnh vực đo lường: Khối lượng, áp suất, điện, nhiệt, dung tích, độ dài, lực - độ cứng, taximet; trong đó, ba lĩnh vực khối lượng, lực - độ cứng và taximet đã đảm nhận được việc kiểm định cho khu vực duyên hải Bắc Bộ. Hàng năm, Chi cục thực hiện kiểm định hàng chục ngàn phương tiện đo cho các ngành và cơ sở; tổ chức nhiều đợt kiểm tra, giám sát thực hiện phép đo chặt chẽ, chấn chỉnh việc cân đong thiếu gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã đi vào chiều sâu với hiệu quả thiết thực. Các phòng thử nghiệm của Chi cục từng bước được đầu tư nâng cấp để đủ năng lực phục vụ yêu cầu quản lý trong giai đoạn hiện nay. Hiện tại, Chi cục TCĐLCL đang vận hành quản lý theo ISO 9001:2000 trong dịch vụ hành chính và có 2 phòng thử nghiệm, hiệu chuẩn được công nhận theo ISO/IEC 17025.
Bên cạnh các lĩnh vực nêu trên, công tác quản lý về an toàn bức xạ hạt nhân, quản lý các hoạt động KH&CN cấp huyện… đều được chú trọng triển khai có hiệu quả. Ngoài ra, cũng không thể không nhắc tới những đóng góp của Sở trong công tác quản lý môi trường những năm 1994-2003, đặc biệt là công tác điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường; thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường; di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường ra khỏi nội thành...; công tác quản lý ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin giai đoạn 1990-2006 đã đóng góp đáng kể cho việc nâng cao mặt bằng về ứng dụng công nghệ thông tin trên địa bàn.
Thứ ba, hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Từ năm 2001, Hải Phòng đã triển khai Chương trình KH&CN hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập với nội dung: Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm (ISO 9000, HACCP…), hệ thống quản lý môi trường (ISO 14000); hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng, đăng ký bảo hộ và quảng bá các đối tượng SHTT; hỗ trợ chi phí đánh giá phù hợp tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn nước ngoài, đánh giá chứng nhận phòng thử nghiệm/hiệu chuẩn; hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp xây dựng và áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng, sản xuất sạch hơn; hỗ trợ tham gia các giải thưởng chất lượng quốc gia và quốc tế... Với sự hỗ trợ của Chương trình, nhận thức và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn đã có một bước tiến bộ đáng kể.
Thứ tư, công tác thông tin KH&CN và xây dựng nguồn lực KH&CN
Những năm gần đây, hoạt động thông tin KH&CN được định hướng gắn bó chặt chẽ, thiết thực phục vụ cho việc thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường KH&CN trên địa bàn thành phố. Việc thành lập và đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả của Sàn Giao dịch công nghệ và thiết bị với nhiệm vụ chính là tổ chức cung cấp thông tin, giới thiệu, môi giới, tư vấn chuyển giao công nghệ… trực thuộc Trung tâm Thông tin KH&CN là minh chứng về kết quả của định hướng đó.
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến KH&CN được chú trọng đẩy mạnh. Sở KH&CN đã xây dựng và triển khai Chương trình truyền thông kết quả R&D với kinh phí hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhằm giới thiệu, quảng bá, đưa nhanh các thành tựu, các kết quả R&D vào thực tiễn đời sống. Với nhiều hình thức phong phú: Hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tập huấn kỹ thuật, giới thiệu, trình diễn công nghệ, xuất bản tài liệu, xây dựng các chương trình, chuyên mục KH&CN trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương, xuất bản các bản tin điện tử, website thông tin KH&CN…, hoạt động thông tin KH&CN của Sở đã có những đóng góp hữu hiệu trong tăng cường tuyên truyền, quảng bá những kết quả R&D phục vụ phát triển sản xuất và đời sống trên địa bàn thành phố.
Công tác xây dựng nguồn lực KH&CN được chú trọng: Lực lượng cán bộ KH&CN đã phát triển nhanh về số lượng, trưởng thành một bước về chất lượng, thích nghi dần với cơ chế kinh tế thị trường và có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và KH&CN của thành phố. Một số lượng đáng kể cán bộ KH&CN có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ tương đối tốt đã được thu hút về Hải Phòng thông qua các dự án đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, bằng cơ chế sử dụng, thành phố đã thu hút chất xám của một lực lượng tương đối lớn các nhà KH&CN từ các cơ quan trung ương. Lực lượng cán bộ KH&CN này đã tham gia một cách tích cực và có hiệu quả vào việc tư vấn, phản biện, nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề lớn, quan trọng về KH&CN và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN được đẩy mạnh với các đối tác chính là Hàn Quốc, Trung Quốc, các nước trong khối ASEAN, Đức, đặc biệt là với thành phố Brest - Cộng hòa Pháp... Sự hợp tác này đã góp phần đưa KH&CN Hải Phòng dần dần hội nhập với cộng đồng KH&CN của khu vực và thế giới. Tài chính cho hoạt động KH&CN từng bước được nâng cao. Vấn đề đa dạng hoá các nguồn đầu tư cho KH&CN đã thực sự được quan tâm. Ngân sách thành phố dành cho KH&CN hàng năm liên tục tăng. Ngoài kinh phí ngân sách địa phương, thành phố đã tranh thủ các nguồn khác đầu tư cho phát triển KH&CN như: Kinh phí ngân sách trung ương, viện trợ quốc tế, vốn tự có và huy động khác của doanh nghiệp… Các nguồn vốn này chiếm tỷ trọng khá lớn trong đầu tư cho phát triển KH&CN của thành phố.
Thứ năm, tăng cường năng lực quản lý KH&CN
Trong suốt 50 năm hoạt động, Sở luôn coi trọng việc tăng cường năng lực quản lý nhà nước về KH&CN, vì đây là yếu tố quan trọng đảm bảo công tác quản lý có chất lượng và hiệu quả. Ngày đầu thành lập, Ban Kỹ thuật thành phố chỉ có trên dưới 10 cán bộ, trong đó số cán bộ tốt nghiệp đại học rất ít. Đến nay, Sở đã có gần 200 cán bộ, công chức, viên chức, trong đó có 2 tiến sĩ, gần 30 thạc sĩ, trên 90% có trình độ đại học, nhiều cán bộ kiểm định, kiểm nghiệm có kinh nghiệm. Những năm gần đây, hàng trăm lượt cán bộ của Sở đã được tham gia các khoá đào tạo về chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính... ở trong và ngoài nước, nhiều cán bộ được tham gia các đợt tham quan, khảo sát, các hội thảo ở nước ngoài. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất cũng luôn được tăng cường, điều kiện trang thiết bị kỹ thuật ngày càng đảm bảo. Hiện nay, 100% cán bộ, chuyên viên quản lý của Sở được trang bị máy tính nối mạng Internet phục vụ công tác. Ngoài ra, Sở luôn coi trọng việc huy động lực lượng cán bộ khoa học và các trang thiết bị của các cơ quan trung ương và địa phương để giải quyết những vấn đề về KH&CN quan trọng của thành phố. Việc thành lập và kiện toàn Hội đồng KH&CN ở cấp quận, huyện cũng như việc tăng cường hỗ trợ về kinh phí, trang thiết bị cơ sở vật chất, đào tạo cán bộ và hướng dẫn chuyên môn cho hoạt động quản lý nhà nước về KH&CN ở cấp quận, huyện đã bước đầu tạo ra sự chuyển biến trong hoạt động KH&CN ở cơ sở.
Nhìn lại chặng đường 50 năm xây dựng và phát triển, tập thể cán bộ, công chức, viên chức Sở KH&CN Hải Phòng phấn khởi, tự hào trước những bước trưởng thành vững mạnh cùng với sự phát triển của hệ thống tổ chức quản lý và R&D trên địa bàn thành phố. Những thành tựu đã đạt được là niềm cổ vũ, động viên toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của Sở tiến vào giai đoạn mới với khí thế mới, vì một thành phố Cảng giàu đẹp, văn minh, tiến bước mạnh mẽ và vững chắc trên con đường CNH, HĐH, xây dựng và phát triển văn hoá, văn minh đô thị đáp ứng yêu cầu của đô thị loại I, đô thị trung tâm cấp quốc gia, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước.