Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 6784
Tổng truy cập : 57,998

Khoa học - Y dược

STENT chuyển dòng - kỹ thuật mới trong điều trị túi phình khổng lồ động mạch não (12/10/2016)

Stent chuyển dòng ra đời trên thế giới vào năm 2005, và từ 2007, sau các cuộc thử nghiệm trên mô hình và trên động vật, phương pháp mới này bắt đầu được áp dụng điều trị thử các túi phình khổng lồ trên người (nghiên cứu thực hiện trên 53 bệnh nhân ở Buenos Aires, Argentina). Năm 2009, kết quả công bố của nghiên cứu được đánh giá là một cuộc cách mạng khi phần lớn (trên 90%) các túi phình được chữa khỏi hoàn toàn sau 1 năm với tỷ lệ tử vong,tàn tật sau điều trị thấp dưới 5%. Vào năm 2011, sau nhiều nghiên cứu tương tự chứng minh được hiệu quả của stent chuyển dòng, phương pháp này được công nhận chính thức ở Hoa Kỳ bởi FDA (là cơ quan xét duyệt các phương pháp điều trị ứng dụng ở Mỹ), và từ đó phương pháp này nhanh chóng trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Có thể nói, stent chuyển dòng là một cách mạng lớn trong điều trị túi phình khổng lồ động mạch não, giúp tăng cao khả năng điều trị và hạ thấp nguy cơ điều trị nhóm bệnh này rất nhiều.

Điều trị túi phình khổng lổ động mạch não tại BV ĐH Y Dược TPHCM

BS CKI. Trần Quốc Tuấn - Khoa Ngoại Thần Kinh, BV ĐH Y Dược TPHCM cho biết: Túi phình khổng lồ mạch máu não (Giant Intracranial Aneurysm) là chỗ dãn lớn mạch máu não do thành mạch yếu hơn bình thường, có thể do thoái hóa thành mạch ở người già hoặc bệnh lý gây yếu thành mạch ở người trẻ tuổi. Túi phình động mạch não nói chung có ở khoảng 3% dân số châu Âu-Mỹ, trong đó 5-8% là túi phình khổng lồ. Số liệu thống kê này theo nghiên cứu theo dõi 4060 túi phình chưa vỡ ở Mỹ đăng trên Tạp chí Lancet năm 2003 (thường gọi tên tắt nghiên cứu đó là “ISUIA").

Túi phình khổng lồ động mạch não có nguy cơ tai biến xuất huyết và/hoặc nhồi máu não về sau rất cao. Theo tài liệu về ngoại thần kinh Youmans, các túi phình khổng lồ trong não có nguy cơ chảy máu não mỗi năm là 10% và nguy cơ gây nhồi máu não cũng tầm 10%/ năm, nghĩa là cộng dồn khoảng 20%/năm nguy cơ gây tai biến mạch máu não cho người bệnh (lưu ý đây là nguy cơ mỗi năm, không phải nguy cơ chung suốt đời). Bên cạnh đó, khoảng 60-70% các người bệnh có túi phình khổng lồ động mạch não sẽ trở nặng sau 5 năm, và nguy cơ tử vong là rất cao lên đến 70-90%.

Điều trị túi phình khổng lồ động mạch não trước đây rất khó khăn và đầy nguy cơ. Trước khi có stent chuyển dòng, phương pháp điều trị các túi phình này thường bằng mổ hở hoặc can thiệp trong lòng mạch máu gây tắc động mạch phình. Các phương pháp này có nguy cơ tử vong hoặc tàn tật sau điều trị lên đến 20-30%, và nguy cơ tái phát túi phình sau này (túi phình lớn lên lại) lên đến 20% sau 5 năm.

Có thể thấy, túi phình khổng lồ động mạch não có nguy cơ của bệnh rất cao, và nguy cơ điều trị trước đây cũng rất cao. Đó là lý do khiến loại bệnh lý này luôn là một trong các nhóm bệnh lý khó nhất trong chuyên ngành Ngoại thần kinh.

Đối tượng và các yếu tố nguy cơ của loại bệnh lý này? 

Túi phình động mạch não nói chung có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, nhưng hay gặp hơn ở nữ giới, tỷ lệ xuất hiện tăng theo tuổi, gặp nhiều nhất ở lứa tuổi già - trung niên. Bên cạnh đó, các nguy cơ tim mạch nói chung như tăng huyết áp, hút thuốc lá, xơ vữa mạch máu, tiểu đường… cũng làm tăng nguy cơ bệnh lý túi phình động mạch não. Một yếu tố khác là cân nặng người bệnh, nếu béo phì thừa cân thì nguy cơ hẹp mạch máu do xơ vữa tăng, còn nếu quá nhẹ cân thì nguy cơ có túi phình động mạch não tăng.

Triệu chứng của bệnh?

Túi phình động mạch não có thể biểu hiện bằng nhiều cách. Phần lớn các túi phình chưa vỡ không gây triệu chứng. Khi kích thước túi phình đủ lớn, có thể gây đau đầu kéo dài, liệt các dây thần kinh đầu mặt cổ (biểu hiện bằng nhìn đôi, lé mắt mới xuất hiện, mờ mắt, méo mặt…), hoặc yếu liệt tay chân diễn tiến nặng dần. Nếu túi phình động mạch não vỡ, thì sẽ biểu hiện như đột quỵ với đau đầu dữ dội đột ngột, cứng cổ, lơ mơ, tê yếu tay chân, thậm chí tử vong ngay sau vỡ.

Phương pháp điều trị 

Đối với các túi phình khổng lồ động mạch não (kích thước rất lớn trên 25mm), thì trước đây có một số hướng tiếp cận điều trị. Một là mổ hở kẹp túi phình, hai là mổ hở nối mạch máu trong ngoài sọ và cắt bỏ động mạch phình, ba là can thiệp trong lòng mạch máu (can thiệp nội mạch) tắc đoạn động mạch phình, và bốn là can thiệp nội mạch bít túi phình một phần bằng coils (là các vòng xoắn kim loại). Các phương pháp này trước đây có nguy cơ tử vong tàn tật sau điều trị rất cao (lên đến 20-30%) hoặc nguy cơ tái phát lại túi phình rất cao (trên 20% sau 5 năm).

Stent chuyển dòng ra đời trên thế giới vào năm 2005 và đến năm 2011, sau nhiều nghiên cứu tương tự chứng minh được hiệu quả của stent chuyển dòng, phương pháp này được công nhận chính thức ở Hoa Kỳ bởi FDA (là cơ quan xét duyệt các phương pháp điều trị ứng dụng ở Mỹ), và từ đó phương pháp này nhanh chóng trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Có thể nói, stent chuyển dòng là một cách mạng lớn trong điều trị túi phình khổng lồ động mạch não, giúp tăng cao khả năng điều trị và hạ thấp nguy cơ điều trị nhóm bệnh này rất nhiều.

Ở Việt Nam, stent chuyển dòng băt đầu được áp dụng vào các năm 2012-2013 tại một bệnh viện tuyến cuối ở Hà Nội. Từ 2015 - 2016, phương pháp này bắt đầu được ứng dụng tại các bệnh viện tại miền Nam, và Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM là một trong các bệnh viện tiên phong trong việc triển khai phương pháp này. Những năm gần đây, trên thế giới bắt đầu xuất hiện nhiều loại stent chuyển dòng khác nhau, nhưng các kết quả nghiên cứu thống kê cho từng loại đến nay vẫn cho thấy loại stent chuyển dòng truyền thống là loại cho kết quả tốt nhất cả về tiên lượng chữa khỏi túi phình cũng như tiên lượng tử vong-tàn tật sau điều trị. 

Để đảm bảo kết quả điều trị cũng như đảm bảo về chuyển giao kỹ thuật điều trị, có những tiêu chuẩn và yêu cầu chung khá khắt khe được đặt ra cho các thủ thuật viên thực hiện phương pháp này trên toàn thế giới. Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM cũng là một trong các bệnh viện đầu tiên ở miền nam có nhân lực đạt được các tiêu chuẩn này. 

So với các phương pháp truyền thống, stent chuyển dòng có rất nhiều ưu điểm như nâng cao khả năng chữa khỏi lên đến 90-95% cho các túi phình động mạch não khổng lồ, giảm nguy cơ điều trị xuống thấp dưới 5% cho phần lớn các túi phình (tuy vẫn có một vài vùng mạch máu có nguy cơ điều trị còn cao khoảng 20%). Dù vậy phương pháp này không phải hoàn hảo. Nhược điểm của phương pháp này khi áp dụng tại Việt Nam là chi phí điều trị cao hơn gấp nhiều lần các phương pháp truyền thống, và tiên lượng về lâu dài sau 10 năm chưa được chứng minh rõ ràng do nó còn quá mới. Chính vì vậy, hiện nay phương pháp này chỉ mới được khuyến cáo áp dụng cho các túi phình động mạch não khi không còn phương pháp điều trị nào khác.

BS. Tuấn khuyến cáo, nhóm bệnh lý mạch máu não nói chung và túi phình động mạch não nói riêng thường yên lặng, biểu hiện không điển hình, và nếu trở nặng có thể nguy hiểm tính mạng trực tiếp. Do vậy, cộng đồng cần lưu ý đến nhóm bệnh lý này và tầm soát loại trừ bằng hình ảnh học tại các trung tâm uy tín khi người bệnh có biểu hiện đau đầu dữ dội đột ngột hoặc đau đầu kéo dài đáp ứng kém với điều trị nội khoa, tê yếu nửa người, nhìn đôi, méo miệng, mờ mắt đột ngột, hoặc rối loạn tri giác như lơ mơ, hôn mê. 

Hiện tại, nếu phát hiện sớm khi tình trạng người bệnh còn tốt, đa số nhóm bệnh lý mạch máu não trong đó có túi phình động mạch não có thể được điều trị khá triệt để với nguy cơ điều trị tương đối thấp bằng can thiệp nội mạch hoặc mổ hở, tùy tình trạng người bệnh và đặc điểm thương tổn.

Nguồn: www.vista.gov.vn (Theo Báo Khoa học Phổ thông)