Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 3520
Tổng truy cập : 57,998

Khoa học và sản xuất

Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trong vườn dừa (09/04/2024)

1. Thiết kế mương nuôi

- Hình dạng và kích cỡ mương nuôi tôm: Mương có dạng hình chữ nhật, mặt mương rộng ≥ 2 m, đáy mương ≥ 1,5 m, sâu mức nước ≥ 0,8 m, các mương có thể liên thông nhau hoặc ngăn thành từng mương theo liếp dừa. Mương nuôi không quá rậm rạp, cần có độ thoáng để ánh nắng chiếu vào ít nhất 30% bề mặt.

- Bờ mương cao, có rào lưới cao khỏi mặt nước cao nhất trong năm ít nhất 0,5m.

- Bờ mương phải chắc chắn, không rò rỉ, không hang hốc làm nơi trú ẩn cho các sinh vật hại tôm.

- Độ nghiêng đáy mương từ 3-5%.

- Cống: Mỗi mương nuôi tôm cần ít nhất là 1 cống (cống xi măng, dạng ván phay, hoặc ống nhựa, bên trong có gắn co nhựa để chủ động gỡ ra, gắn vào khi thay nước). Nếu hai cống thì đặt một cống cấp, một cống thoát về 2 phía của mương nuôi. Kích thước cống tùy thuộc vào kích thước mương nuôi cũng như khả năng trao đổi nước cho mương vào mỗi con nước cường (cống phải trao đổi từ 20-30% lượng nước mương nuôi vào mỗi lần nước cường). Có thể sử dụng cống xi măng, ván phay hoặc ống nhựa, có co nhựa để dễ dàng thay thế và gắn vào khi thay nước.

2. Chuẩn bị mương nuôi

- Việc đầu tiên trong khâu chuẩn bị đó là cải tạo mương nuôi, sửa lại bờ, cống, đắp hang mọi, rò rỉ và chống địch hại.

* Vệ sinh mương

Sau mỗi vụ nuôi, mương nuôi phải sên vét lớp bùn đáy để loại bỏ hết lớp bùn lắng tụ ở đáy, mầm bệnh và khí độc. Mương cần phơi đáy 1 tuần, công việc này giúp oxy hóa các vật chất hữu cơ còn lại ở đáy đồng thời giải phóng các khí độc như H2S, NH3 trong đáy mương.

* Kiểm tra pH đất đáy mương

Sử dụng vôi bột Ca(OH)2 để ổn định độ pH của nước ao, cải tạo đất phèn, nâng pH nền đáy, kiểm soát tảo và diệt khuẩn nền đáy ao ở đầu vụ nuôi. Cách tính toán lượng vôi theo bảng sau:

*  Tạo giá thể cho tôm trú ẩn

 Sử dụng cành bần, trâm bầu hay tre để làm chà. Nhành cây tuốt hết lá và phơi khô cho hết nhựa mới và dài khoảng 1,5-2 m. Chà cắm nghiêng góc 30-45 độ thành hàng thẳng hoặc cắm thành từng ô (3 x 6,4 x 5,5 x 8 m) hay bó thành từng bó 40-50 cm. Diện tích chà chiếm khoảng 10-20 % so với diện tích mương.

* Chuẩn bị nước

- Chọn con nước cường, sạch lấy nước qua lưới lọc vào mương, diệt cá tạp trước khi thả giống, có thể dùng 02 loại sau đây để diệt cá:

- Bột trà (chứa saponine 10-13%) dùng 7-8 kg/1.000 m3.

- Dây thuốc cá (chứa retenone) dùng 3-4 kg/1.000 m3.

- Bón phân giúp phát triển thức ăn tự nhiên, phân sử dụng thường là phân hữu cơ như: heo, gà đã ủ kỹ với liều lượng từ 20-25 kg/100m2. Hoặc phân vô cơ như: DAP, Urê với liều lượng: 1-1,5 kg/1.000 m3.

3. Phương pháp chọn tôm giống và thả giống

- Chọn con giống có chất lượng tốt, kích cỡ đồng đều, phụ bộ còn nguyên vẹn, không bị nhiễm bệnh, có nguồn gốc từ các trại ương nuôi uy tín.

- Mật độ thả giống: 4-5 con/m2

- Giống trước khi thả xuống mương nuôi cần phải làm thích nghi với môi trường mới một cách từ (lưu ý sự chênh lệch giữa nhiệt độ và pH). Thời gian thả tôm tốt nhất là sáng sớm hoặc chiều mát.

Tôm càng xanh giống (Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam)

4.  Quản lý mương nuôi

- Thức ăn và cách cho ăn: sử dụng 2 dạng thức ăn đó là thức ăn viên công nghiệp và thức ăn tự chế biến trong quá trình nuôi.

- Cho tôm ăn 2 lần/ngày. Lượng thức ăn buổi chiều chiếm 2/3 tổng lượng cho ăn trong ngày. Cho tôm ăn nên rãi ven bờ, cũng có thể cho ăn thành nhiều điểm trong mương và cho ăn cùng một chổ vì tôm quen nơi ăn. 

- Thức ăn tự chế biến gồm có: Trùng quế, cá biển, cám, ruốt, ốc bươu vàng, còng, mì, dừa.  Kích cỡ thức ăn tùy thuộc vào kích thước tôm. Thức ăn phải tươi và cho ăn từ từ. Không nên cho tôm ăn thừa làm ô nhiễm môi trường nước. Lượng thức ăn cho tôm ăn theo % trọng lượng thân:

- Khi cho tôm ăn cũng cần dựa vào một số yếu tố khác bên cạnh việc ước lượng theo đàn tôm trong mương để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp như:

- Căn cứ vào chất lượng môi trường mương nuôi, mương dơ hay những ngày mưa lớn nên giảm lượng thức ăn.

- Kết hợp sàng ăn và rãi thành nhiều điểm trong mương để có thể đánh giá đúng thức ăn tôm sử dụng.

Theo dõi tăng trưởng và tình trạng sức khoẻ tôm: do đặc tính của tôm lớn lên là nhờ lột xác và chu kỳ lột xác tuỳ thuộc vào kích cỡ và điều kiện môi trường sống.

5. Quản lý chất lượng môi trường nuôi

* Hàm lượng oxy hòa tan

Trong mương nuôi tôm hay trong mương nuôi thủy sản nói chung thì lượng oxy hòa tan trong nước có được do quá trình quang hợp của tảo, xâm nhập từ không khí vào và trao đổi nước mương. Tuy nhiên, lượng oxy trong mương thường không ổn và dao động lớn giữa ngày và đêm. Trong mương oxy mất đi là do sự hô hấp của tôm, cá, tảo vào ban đêm và quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ. Oxy hòa tan trong mương nuôi tôm phải đảm bảo ≥3,5 mg/L.

* Quản lý pH: pH: 7-8 là thích hợp nhất cho sự phát triển của tôm.

Tất cả sự biến động tăng giảm pH của nước mương nuôi (pH > 9 hay pH < 7) luôn có sự ảnh hưởng đến đời sống của tôm. Phương án xử lý là thay nước hay sử dụng vôi điều chỉnh sự thay đổi pH nước trong mương. Dùng vôi với liều lượng 2-3 kg/100m2, xử lý phần xung quanh mương trước những cơn mưa lớn nhằm tránh sự rửa trôi phèn từ bờ vào mương.

* Quản lý độ đục và độ trong

- Quản lý độ đục: sau những cơn mưa, nguồn nước lấy vào mương chứa nhiều hạt phù sa làm nước vẫn đục hay sự phát triển quá mức của tảo có thể gây trở ngại đối với tôm nuôi. Có thể làm cho nước trong mương trở nên trong lại bằng cách dùng vôi pha nước và tạt khắp mương để lắng tụ các hạt mùn bã (1,5-2 kg/100m2).

- Quản lý độ trong: Độ trong thích hợp từ 30-40 cm.

- Định kỳ 15 ngày sẽ tiến hành thay nước khoảng 80% nhằm kích thích cho tôm lột xác đồng loạt.

* Quản lý các khí độc

- Quá trình phân hủy các chất thải của tôm, thức ăn thừa, chất hữu cơ từ ngoài vào, tảo chết, sẽ tạo nhiều chất dinh dưỡng cho mương và cũng tạo nhiều khí độc khác có tác hại đối với tôm mà chủ yếu là khí ở tầng đáy như H2S, NH3.

Để tạo điều kiện cho tôm phát triển tốt, các khí độc này phải nằm trong ngưỡng cho phép: NH3 < 0,1mg/l; H2S < 0,03 mg/L.

6. Thu hoạch tôm

- Có thể tiến hành thu tỉa hay thu một lần vào cuối vụ nuôi. Tuy nhiên, đối với tôm càng xanh, do sau thời gian nuôi 3-4 tháng tôm cái thường mang trứng. Vì vậy, nên tiến hành thu tỉa tôm đực và tôm cái sau 4 tháng nuôi. Lựa chọn những con cái mang trứng, những tôm đóng rong, tôm mang mầm bệnh thu trước, những con cái và con đực có khả năng phát triển được tuyển chọn lại để nuôi tiếp, sau đó tiếp tục nuôi 2 tháng rồi thu hoạch toàn bộ bằng cách tát cạn nước trong mương.

Trần Anh Khoa – Trung tâm Dịch vụ KTNN

(Nguồn: Tạp chí thủy sản Việt Nam)

Ngày cập nhật: 08/04/2024 

https://nongnghiep.vinhlong.gov.vn/xem-chi-tiet-tin-tuc/id/247730