Chuyên mục
Đang trực tuyến : | 22613 |
Tổng truy cập : | 57,998 |
Khoa học và sản xuất
Lưu ý khi vào đầu vụ nuôi cá (29/03/2017)
Hàng năm, vào thời gian tháng 4, tháng 5 là lúc thời tiết bắt đầu chuyển sang mùa mưa và cũng là thời điểm bắt đầu cho vụ nuôi cá mới. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do thời tiết diễn biến phức tạp, môi trường nước nuôi ô nhiễm, dịch bệnh trên cá bệnh bùng phát nhiều nơi. Chính vì vậy, để vụ nuôi thành công, đòi hỏi người nuôi phải thực hiện một số biện pháp kỹ thuật sau:
1. Tiêu chuẩn ao tốt để nuôi cá:
- Diện tích ao nuôi cá tốt nhất có diện tích khoảng 1.000-2.000m2, nếu ao nuôi nhỏ hơn 1.000m2, nên nuôi các loài cá có cơ quan hô hấp thở phụ như: Cá trê, nheo... sẽ cho hiệu quả cao hơn nuôi cá trắm, trôi, chép,....
- Ao nên gần nguồn nước sạch để dễ dàng thay nước khi cần.
- Mặt ao phải thoáng, không có tán cây che, để ao tiếp nhận nhiều ánh nắng mặt trời, giúp cho các sinh vật là thức ăn tự nhiên của cá phát triển tốt. Đặc biệt, trên bờ ao không trồng cây lá có chứa tinh dầu như cam, bưởi, bạch đàn,… vì khi lá cây rụng xuống đáy ao gây ô nhiễm môi trường ao nuôi.
- Bờ ao phải chắc chắn giữ được nước. Bờ phải cao hơn mực nước cao nhất trong ao tối thiểu 0,5m để tránh nước tràn bờ, cá thoát ra ngoài.
- Độ sâu mực nước tốt nhất trong ao nuôi cá thịt từ 1,5 - 2m. Ở mực nước này, các sinh vật đáy là thức ăn tự nhiên dễ dàng phát triển. Nhiệt độ nước trong ao ít có sự chênh lệch ở tầng đáy và tầng mặt, đảm bảo cho sự hoạt động và sinh trưởng của cá nuôi. Nếu mực nước quá thấp (40-50cm) dẫn đến cá chết rét vào mùa đông và chết nóng vào mùa hè. Ngược lại, nếu trong ao nuôi cá nước tĩnh có mực nước quá sâu cũng không tốt, vì ở đáy ao quá trình phân hủy yếm khí các chất hữu cơ sẽ sinh ra khí độc như: H2S, NH3,.. ảnh hưởng tới sức khỏe của cá, ao nuôi quá sâu cũng sẽ dẫn tới hiện tượng phân tầng nhiệt độ giữa các tầng nước trong ao.
- Đáy ao: Nên bằng phẳng và dốc về phía cống để dễ tháo nước và thu hoạch cá. Ao phải được nạo vét lớp bùn hàng năm. Nên có hệ thống cống cấp và thoát nước riêng biệt.
2. Chuẩn bị ao thả cá:
- Việc chuẩn bị ao tốt là bước quan trọng đầu tiên trong công tác phòng bệnh.
+ Đối với ao cũ: Trước khi thả cá 7 -10 ngày, ao phải được làm cạn nước, dọn sạch rong, cỏ, cây cối xung quanh ao,… vét lớp bùn đáy, không nên để lớp bùn đáy quá dày, độ sâu bùn đáy tốt nhất là 20-30cm. Sửa dọn bờ cho chắc chắn, lấp các hang hốc quanh ao.
+ Đối với ao mới: Nên lấy nước vào ngâm xả phèn nhiều lần trước khi làm các bước tiếp theo.
- Bón vôi liều lượng 7 -10kg/100m2 ao, vùng phèn có thể từ 10-20kg/100m2 ao. Tác dụng của vôi: diệt khuẩn, diệt cá tạp và ổn định pH, làm cho đáy ao tơi xốp. Phơi đáy ao 2- 3 ngày (vùng phèn không phơi ao). Nên bón vôi cải tạo ao vào buổi trưa nắng để tăng hiệu quả của vôi. Vào mùa mưa, nên bón vôi cả trên bờ để tránh phèn bị rửa trôi xuống ao khi trời mưa. Đối với các ao không có điều kiện tháo cạn nước hoặc muốn diệt hết các cá tạp, cá dữ có thể dùng chế phẩm dạng bột có chứa Rotenon được đóng gói sẵn để diệt cá tạp hoặc dùng Saponin, rễ cây thuốc cá ngâm xuống ao vào buổi trưa để đạt hiệu quả cao.
- Bón phân: Bón phân cho ao nhằm cung cấp dinh dưỡng tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Có 3 loại phân có thể sử dụng: Phân hữu cơ (gà, vịt, lợn…): 10 - 15kg/100m2; phân phải được ủ hoai (phân chuồng trộn với 3- 4% vôi ủ trong 20 -30 ngày); Phân xanh (lá cây họ đậu) với lượng 15 - 20kg/100m2 bón lúc phơi ao. Sau khi lấy nước vào ao gặp phải những ao khó gây màu nước cần bổ sung phân vô cơ: Phân đạm + Phân lân với tỷ lệ 2/1, bón với lượng 1-2kg/1.000m2, phân vô cơ được hòa tan vào nước tạt đều khắp ao. Khi bón phân phải tuỳ theo màu nước ao mà bón liều lượng phù hơp.
- Lưu ý: lấy nước vào ao phải có lưới lọc ngăn không cho cá tạp, cá dữ, trứng địch hại, trứng cá theo vào ao hại cá nuôi hoặc cạnh tranh thức ăn của cá nuôi. Sau khi lấy nước để khoảng 5-7 ngày, khi nước có màu xanh nõn chuối chuối non hoặc xanh vỏ đậu thì tiến hành thả giống.
3. Thả cá:
- Chọn loài cá nuôi: Hiện nay có rất nhiều loại cá nuôi, để chọn loài cá nuôi thích hợp cần xem xét các yếu tố sau: Khả năng cung cấp thức ăn, theo thị hiếu của người tiêu dùng từng vùng, đặc điểm sinh học của các loài cá chọn nuôi phù hợp điều kiện môi trường (vùng phèn có thể nuôi rô đồng, trê…; mô hình VAC có thể nuôi cá trê, rô phi …).
- Nuôi ghép: Có thể thả ghép để tận dụng thức ăn và không gian sống (rô phi 60% +chép 10% + trắm 15% + mè hoa 5% + mè trắng 10%). Khi thả ghép lưu ý: thả cùng lúc và cùng cỡ giống; chọn loài cá không cùng tính ăn, không gian sống, có thời gian nuôi và giá trị thương phẩm gần bằng nhau để dễ bán.
- Mật độ thả: Nhóm cá không có cơ quan hô hấp phụ (rô phi, điêu hồng, mè, trôi,trắm, chép…), thả mật độ dưới 3 con/m2. Riêng cá trê, rô đồng khi nuôi đơn có thể thả nuôi 15-30con/m2 nếu cung cấp đủ thức ăn. Lưu ý: Nếu thả dày người nuôi sẽ tốn tiền con giống, thức ăn, cá dễ bị nhiễm bệnh, hao hụt nhiều, thời gian nuôi kéo dài, cỡ cá thương phẩm nhỏ, cuối cùng hiệu quả kinh tế thấp.
- Kết quả nuôi cá phụ thuộc rất lớn vào chất lượng con giống. Khi chọn cá giống chú ý các tiêu chuẩn giống tốt như: Cá đồng cỡ, màu sắc sáng đẹp, bơi lội nhanh nhẹn, phản ứng nhanh; không bị dị hình, trầy xước, lở loét. Nên có giấy kiểm dịch chất lượng cá giống của cơ quan chức năng nhất là mô hình nuôi công nghiệp.
- Mùa vụ thả giống: thường tập trung vào đầu mùa mưa vì lúc này trùng với mùa vụ sinh sản của cá ngoài tự nhiên nên chất lượng cá giống sẽ tốt hơn. Riêng vùng ảnh hưởng phèn nên thả cá vào cuối mùa mưa.
- Cách thả cá: Cá đưa về ao không nên thả ra ao ngay để tránh cho cá không bị sốc nhiệt. Nên ngâm bao cá xuống ao khoảng 10-15 phút cho cân bằng nhiệt độ rồi mới mở bọc cho cá từ từ lội ra ngoài.
- Để phòng bệnh cho cá trước khi thả nên tắm cá giống qua nước muối 2-3% trong 5-10 phút (200-300g muối/10lít nước) trong quá trình tắm phải theo dõi cá. Nếu nơi bán giống có cho muối vào bao cá thì về ao không cần tắm muối.
4. Cho ăn - chăm sóc:
- Cho cá ăn hàng ngày và đầy đủ sẽ tạo điều kiện cho cá mau lớn, tăng cường sức đề kháng với bệnh. Tùy theo điều kiện từng gia đình mà có thể chọn loại thức ăn nào cho phù hợp, có thể trong suốt quá trình nuôi sử dụng toàn bộ thức ăn công nghiệp hoặc để giảm giá thành sản phẩm có thể sử dụng thức ăn viên các tháng đầu và cuối; những tháng giữa vụ, cho ăn thức ăn tự chế từ nguồn phụ phẩm tại chỗ và rau. Cá nhỏ cho ăn thức ăn có hàm lượng đạm cao và giảm dần khi cá lớn. Lượng thức ăn hàng ngày đối với cá nhỏ là 5-7% tổng trọng lượng cá, cá lớn 2-3%. Nếu thức ăn là tấm cám nấu thì vò viên để vào sàng cho cá ăn để dễ kiểm tra thức ăn.
-Chăm sóc - quản lý: Định kỳ thay nước để giữ nước ao sạch, nhất là các tháng cuối vụ nuôi. Trước khi thay nước xong, dùng vôi và muối hòa loãng từng loại vào nước tạt đều khắp ao để phòng bệnh cho cá. Đối với những ao không thay nước được có thể dung chế phẩm sinh học xử lý môi trường nước và đáy ao.
5. Thu hoạch: đối với các loài cá nuôi phổ biến hiện nay có thời gian nuôi khoảng dưới 12 tháng; khi cá đạt cỡ thương phẩm thì xuất bán, nên bỏ đói cá 1-2 ngày trước bán và bán hết cá trong ao một lần.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Vĩnh Phúc
- Bổ sung sắt uống để phòng ngừa thiếu máu ở heo con sơ sinh (09/12/2024)
- Phòng bệnh ký sinh trùng trên cá bớp (25/11/2024)
- Tôm bị mềm vỏ sau mưa: Nguyên nhân và cách khắc phục hiệu quả (12/11/2024)
- Môi trường mang thai của heo nái hậu bị ảnh hưởng tới sự phát triển trí não ở heo (30/10/2024)
- Bệnh lưỡi xanh: Cơ chế lây truyền và các biện pháp phòng ngừa (15/10/2024)
- Một số kỹ thuật úm gà con (01/10/2024)