Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 20097
Tổng truy cập : 57,998

Khoa học và sản xuất

Người nông dân có thể làm giàu từ nuôi cá (06/07/2015)

 

Đó là lời tâm sự của anh Thân Văn Chuyển, sinh năm 1955, thôn Thanh Mai, xã Đa Mai, TP Bắc Giang.

Với 1,5 ha diện tích, anh thiết kế thành 02 ao lớn nhỏ trong đó ao nhỏ 3.000m2 để nuôi vỗ cá giống, phục vụ cho việc nuôi cá thịt trong hồ và để phân loại cũng như xử lý phòng bệnh cho cá trước khi đưa vào hồ nuôi. Ngoài đối tượng nuôi chính là cá rô phi đơn tính thả 60% lượng cá nuôi trong ao, anh còn kết hợp nuôi ghép các loài cá khác như mè, trắm, chép, chim trắng...

 

Anh Chuyển cho biết, để đạt được sản lượng cao, nuôi có hiệu quả, phải làm tốt các khâu sau:

Thiết kế ao nuôi:

Ao nuôi cá phải ở gần nguồn nước sạch để dễ dàng cấp và thoát nước. Ao quang đãng, không bị cớm rợp, tiện đi lại chăm sóc.

Bờ ao chắc chắn, không rò rỉ, bờ có độ cao lớn hơn mực nước cao nhất của ao từ 0,5m trở lên, mực nước sâu từ 1,8-2,5 m - “sâu ao cao bờ”. Ao có cống cấp và thoát nước được đặt đối diện nhau theo chiều dài của ao, độ nghiêng đáy ao dốc về phía cống thoát nước.

Với những ao ở khu vực có nước dồn về mùa lũ phải có hệ thống cống xả tràn, đăng, kè chắc chắn để chắn giữ cá.

Lựa chọn giống:

Mật độ, đối tượng: Cần phải chọn lựa kỹ càng các loại giống để đảm bảo khoẻ mạnh, nguồn gốc rõ ràng từ các cơ sở có uy tín, không mang mầm bệnh, tốt nhất là giống cấp III (8-12 cm).

Mật độ nuôi 01-2 con/m2, nên nuôi ghép. Trong đó, chọn một đối tượng nuôi chính để tận dụng được diện tích, thức ăn. Trước khi thả cá giống xuống ao cần tắm phòng bệnh cho cá trong dung dịch muối ăn (NaCl) với nồng độ 2-3 % (2-3 kg muối ăn/100 lít nước) trong 10-15 phút.

Cá giống thả theo tỉ lệ hợp lý: Dựa vào thị trường tiêu thụ, tính ăn, tầng nước sống của các loài cá, điều kiện chăm sóc của chủ hộ. Các đối tượng nuôi chính như rô phi đơn tính, chép, chim trắng, nuôi ghép với trắm cỏ, trôi, mè.

+ Rô phi đơn tính:  60%.

+ Cá Chim trắng:   20%.

+ Cá Chép:            10 %

+ Mè:                       5 %

+ Cá trắm cỏ:           5 %

Liên tục có cá “gối”: Thiết kế từ 01-02 ao nhỏ để chuẩn bị lượng cá giống hậu bị nuôi trong các ao, tận dụng thời vụ trong năm, tránh lãng phí diện tích mặt nước, giảm chi phí mua cá giống.

Chăm sóc:

Cho ăn đầy đủ cả lượng và chất, nhất là giai đoạn cá giống và trước khi thu hoạch để cá phát triển đồng đều. Với  phương thức nuôi thâm canh và bán thâm canh, thì thức ăn chủ yếu là cám công nghiệp, kết hợp với thóc, ngô, khoai, đậu tương, cám mạch...

Mỗi ngày cho ăn 3-5% tổng trọng lượng đàn cá. Lượng thức ăn trong ngày được điều chỉnh dựa vào thời tiết, khả năng bắt mồi của cá, số lượng cá trong ao.

Cần bổ sung chất khoáng, vitamin, men để cá nuôi tăng sức đề kháng và tiêu hóa tốt hơn. Thức ăn được chia đều 2 bữa, 1 bữa cho cá ăn vào 8-9 giờ sáng, số còn lại cho ăn bữa chiều vào 4-5 giờ.

Cần cho cá ăn đúng số lượng, chất lượng, đúng giờ để tạo phản xạ cho ăn. Cho ăn trên không gian rộng mặt ao để các loại cá đều có thể tiếp cận thức ăn.

Theo dõi hoạt động của cá thường xuyên hàng ngày vào các buổi sáng, sau khi mưa rào, để phát hiện các hiện tượng biến động khác thường và có biện pháp xử lý kịp thời như hiện tượng cá mắc bệnh, cá  bị sốc pH, thiếu oxy, cá bị nhiễm chất độc, tràn ao...

Thêm nước mới hàng tháng cho ao bằng cách tháo nước cũ 20-30cm và thêm nước mới đến mức cần thiết. Định kỳ 2-3 tuần 1 lần dùng vôi bột hoà nước té đều cho ao với lượng 2-3 kg/100m3 nước. Phân chuồng dùng để bón cho ao cần được ủ hoai với vôi bột khoảng 20 ngày trước khi bón với liều lượng 4-5kg vôi/100 kg phân chuồng để diệt hết các vi khuẩn gây bệnh cho cá.

Thu hoạch:

Thu hoạch theo phương thức “Đánh tỉa thả bù” - sau khi thu cá đạt kích cỡ thương phẩm, thả bù lại đủ số lượng, chủng loại đã thu hoạch. Điều quan trọng là phải tính toán các vụ nuôi trong năm đảm bảo thời điểm thu hoạch hợp lý, được giá.

Nguồn: Sở NN&PTNT Bắc Giang