Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 36054
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam (29/05/2025)

Để góp phần hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua những giai đoạn khó khăn, hoặc khuyến khích, thúc đẩy người dân, doanh nghiệp tăng cường đầu tư, kinh doanh vào những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Theo đó, Nhà nước dùng nguồn lực ngân sách nhà nước để trả một phần lãi vay cho người dân, doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực được quy định vay vốn tại các Ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn 2010-2020, thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước; trên cơ sở đề nghị của các bộ ngành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chương trình cho vay tín dụng chính sách được triển khai qua các Ngân hàng thương mại bao gồm: Chính sách hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu, nâng cấp tàu; Chính sách cho vay phát triển trồng rừng; Chương trình cho vay nhà ở xã hội; Chương trình hỗ trợ các huyện nghèo; Chương trình cho vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; Chương trình hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp... Tuy nhiên, trong giai đoạn ảnh hưởng của Covid-19, nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh hoặc phá sản, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và điều này đã gia tăng áp lực lên tỷ lệ nợ xấu tăng, áp lực nên hệ thống các tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến an toàn hệ thống tài chính Việt Nam. Vì vậy, hỗ trợ và phục hồi kinh tế thông qua cho vay cấp bù lãi suất thông qua hệ thống ngân hàng với lãi suất thấp và được Nhà nước cấp bù lãi suất lại cho ngân hàng nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng giá rẻ là điều hết sức cần thiết. Trong số các chính sách hỗ trợ và phục hồi nền kinh tế từ trước đến nay, chính sách hỗ trợ lãi suất từ Ngân hàng Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng được đánh giá là chính sách có tính lan tỏa góp phần kích cầu nền kinh tế. Nhưng việc xây dựng và triển khai chính sách cũng gặp phải không ít khó khăn cả về mặt pháp lý cũng như thực thi thực hiện, đòi hỏi phải có sự tham gia kịp thời của các cấp để giải ngân đúng tiến độ, hỗ trợ kịp thời cho người dân và doanh nghiệp. Đứng trước thực trạng trên, Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính đã triển khai đề tài “Chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam” do ThS Vũ Thị Bích Liên làm chủ nhiệm. Đề tài tập trung vào các nội dung: tổng hợp cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về chính sách HTLS; đánh giá thực trạng chính sách HTLS từ NSNN nhằm góp phần phục hồi và phát triển kinh tế và các chính sách HTLS từ NSNN thông qua hệ thông NHTM đã và đang thực hiện trong thời gian qua; từ đó đề xuất giải pháp đối với chính sách HTLS từ NSNN thông qua hệ thống ngân hàng để đạt được mục tiêu phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

Ảnh Internet.

(1). Nhóm nghiên cứu đã trình bày những cơ sở lý luận về việc hỗ trợ từ ngân sách và các vấn đề cơ bản liên quan đến việc áp dụng lãi suất thông qua các ngân hàng thương mại với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Phần tổng quan về chính sách hỗ trợ đã tóm tắt các khái niệm và hình thức chính sách hỗ trợ từ ngân sách nói chung, cũng như việc hỗ trợ lãi suất qua các ngân hàng thương mại do ngân sách nhà nước cung cấp. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu đã phân tích mục tiêu, đối tượng, ưu nhược điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ trợ từ ngân sách, bao gồm cả hỗ trợ lãi suất thông qua ngân sách nhà nước qua các ngân hàng thương mại, cũng như kinh nghiệm quốc tế về chính sách này từ một số quốc gia.

Từ những kinh nghiệm quốc tế về chính sách này từ một số quốc gia, nhóm nghiên cứu đã rút ra bài học có thể áp dụng cho Việt Nam đó là: Đánh giá đúng mức vai trò quan trọng và vị trí của chính sách HTLS trong phát triển kinh tế. Thực tế chỉ ra rằng, chính sách này có vai trò hết sức quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng kinh tế; Trong việc hỗ trợ vốn vay, kinh nghiệm của các nước là cần xác định rõ đối tượng vay, từ đó mới đánh giá được sự cần thiết, thiết kế “liều lượng” quy mô, mức lãi suất hỗ trợ và thời gian hỗ trợ phù hợp; Hình thức HTLS cũng cũng cần linh hoạt, không ngừng đổi mới, rút kinh nghiệm từ những chính sách trước đây; đồng thời tham khảo ý kiến từ nhiều phía, đặc biệt là ý kiến từ các chuyên gia, phản ánh các đối tượng bị tác động trực tiếp (người dân, doanh nghiệp, NHTM) để có thể kịp thời điều chỉnh chính sách; Nhà nước cần chỉ đạo và điều phối các cơ quan chức năng xây dựng các chính sách hỗ trợ cũng như luật hóa các chính sách này phù hợp với từng thời kỳ và đặc điểm của nền kinh tế, cùng như phù hợp, tương quan với các chính sách hỗ trợ trực tiếp khác. Trong đó, lưu ý đến khâu kiểm tra, giám sát kịp thời để tránh các trục lợi chính sách; Nhà nước cần hoàn thiện các cơ chế chính sách có liên quan, giao nhiệm vụ phù hợp đối với từng cơ quan chức năng để đảm bảo đồng bộ, rõ ràng, tránh vướng mắc, chồng chéo, bất cập trong triển khai thực hiện; Tăng cường các biện pháp truyền thông, công khai, minh bạch thông tin để người dân, doanh nghiệp hiểu và thực hiện đúng quy định.

(2). Đánh giá thực trạng chính sách HTLS từ NSNN nhằm góp phần phục hồi và phát triển kinh tế và các chính sách HTLS từ NSNN thông qua hệ thống NHTM đã và đang thực hiện trong thời gian qua. Nhóm nghiên cứu trình bày bối cảnh và quá trình chỉ đạo, thực hiện các chính sách Hỗ trợ Lãi suất từ Ngân sách Nhà nước (HTLS NSNN) thông qua hệ thống ngân hàng từ năm 2010 - 2021. Dựa trên việc phân biệt rõ ràng giữa tín dụng chính sách và tín dụng thương mại, nội dung này đã đánh giá các khía cạnh tích cực cũng như hạn chế tồn tại trong việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội thông qua Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) và chính sách tín dụng ưu đãi qua Ngân hàng Thương mại (NHTM) cụ thể: Giai đoạn 2010-2021, tốc độ tăng trưởng tổng nguồn vốn hoạt động tín dụng chính sách đạt bình quản 10%/năm. Quy mô tổng nguồn vốn hoạt động tín dụng chính sách tăng gấp 2,6 lần, từ 90.400 tỷ đồng năm 2010 lên 233.426 tỷ đồng đến thời điểm 31/12/2020. Để đạt được kết quả này, Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ban, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp đã thường xuyên quan tâm cân đối, bố trí ngân sách và tập trung các nguồn lực tài chính để thực hiện kịp thời, có hiệu quả tín dụng chính sách xã hội. Bên cạnh đó, NHCSXH đã chủ động, tích cực huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trên thị trường, tiếp cận nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế... để tạo lập nguôn vốn cho vay. Nguồn vốn tín dụng chính sách không ngừng tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, đáp ứng nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đến 31/12/2022, dư nợ các chương trình tín dụng chính sách qua NHTM (hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo; tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; giảm tổn thất trong nông nghiệp; ngư dân đóng mới tàu, nâng cấp tàu) là 6.092 tỷ đồng, lũy kế số ngân sách nhà nước đã cấp bù chênh lệch lãi suất cho các ngân hàng là 2.782 tỷ đồng, số ngân sách nhà nước còn phải cấp cho các ngân hàng là 2.224 tỷ đồng.

Nhìn chung, các chương trình tín dụng chính sách với lãi suất cho vay ưu đãi thấp hơn lãi suất cho vay thông thường đã hỗ trợ cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, tạo động lực phát triển để thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư nhất là ở vùng sâu, vùng xa, các địa bàn khó khăn thường xuyên gặp thiên tai, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên, vẫn còn có những khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai thực hiện và bố trí nguồn kinh phí để thực hiện chính sách trong thời gian qua dẫn đến chưa phát huy được tối đa hiệu quả của chính sách. Từ đó, đúc rút thành những bài học kinh nghiệm quan trọng để định hướng xây dựng chính sách HTLS trong các giai đoạn tiếp theo, cụ thể: Khi xây dựng các chương trình tín dụng chính sách mới phải gắn với việc quy hoạch phát triển của ngành, địa phương và toàn quốc; Xây dựng các chương trình tín dụng chính sách HTLS cần phải lên dự toán cho cả chương trình, trong đó phải xác định rõ nguồn NSNN sẽ bố trí cấp bù hàng năm cho các NHTM để bảo đảm kinh phí triển khai thực hiện; Các chương trình tín dụng chính sách dược HTLS có các thủ tục hành chính như lập dự toán cấp bù lãi suất, tạm cấp, quyết toán cấp bù lãi suất.

Như vậy, trong giai đoạn 2011-2020, NHCSXH đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc cung cấp tín dụng chính sách xã hội do Nhà nước quản lý, giúp hỗ trợ hiệu quả hơn cho người nghèo, hộ cận nghèo và các nhóm đối tượng chính sách khác. Điều này đã góp phần xác định thành tựu liên tục của chính sách tín dụng chính sách trong những năm qua.

(3). Đề xuất giải pháp đối với chính sách HTLS từ NSNN thông qua hệ thống ngân hàng để đạt được mục tiêu phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam

Nhóm nghiên cứu đã đưa ra mục tiêu, nhiệm vụ và những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong giai đoạn 2023-2025 và tầm nhìn đến năm 2030, đó là: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để tạo thuận lợi cho công tác xây dựng chính sách và triển khai thực hiện chính sách, đảm bảo không bị vướng mắc về mặt pháp lý trong thực thi chính sách; Ngân sách nhà nước bố trí đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí hỗ trợ lãi suất; Công khai, minh bạch, đúng đối tượng, đứng mục đích, tránh trục lợi chính sách; Tập trung thống nhất chức năng tín dụng chính sách từ các NHTM sang NHCSXH; duy trì vai trò NHCSXH là định chế tài chính công thực hiện các chính sách xã hội của Chính phủ; tập trung vào những lĩnh vực mà các tố chức tài chính, trong đó có các NHTM hoạt động theo nguyên tắc thị trường không thể đáp ứng hoặc chỉ đáp ứng được một phần; Việc hỗ trợ lãi suất qua các ngân hàng đảm bảo thực hiện đúng quy định, tạo thuận lợi cho khách hàng; Ngân hàng thương mại tự chịu trách nhiệm về việc cho vay, hỗ trợ lãi suất.

Từ những yêu cầu đặt ra, nhóm nghiên cứu đã đề ra một số giải pháp chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh nhằm hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển, cụ thể: Xu thế chung của các nước trên thế giới trong lựa chọn gói hỗ trợ kích thích phát triển kinh tế thay vì chọn chính sách hỗ trợ gián tiếp thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại; Xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh phục hồi và phát triển; bổ sung các hình thức hỗ trợ khác nhau đế đối tượng hỗ trợ được lựa chọn hình thức hỗ trợ phù hợp; Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơ chế chính sách về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh (sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công năm 2019 và các văn bản hướng dẫn; sửa đổi, bổ sung Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 06/04/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Đầu tư công đối với quy định về cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm lập kế hoạch đầu tư công về nhu cầu cấp bù lãi suất của các ngân hàng thương mại thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi); giải pháp về tăng cường sự phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương trong triển khai chính sách hỗ trợ; Nhóm giải pháp về các chính sách hỗ trợ khác.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.