Chuyên mục
Đang trực tuyến : | 36051 |
Tổng truy cập : | 57,998 |
Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN
Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển hoạt động sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên tại các địa phương (24/05/2025)
“Nhà sáng chế không chuyên” là những cá nhân hoặc nhóm người không được đào tạo bài bản trong lĩnh vực khoa học công nghệ mà họ sáng tạo hoặc không làm việc trong các tổ chức nghiên cứu chuyên nghiệp, nhưng dựa trên kinh nghiệm thực tiễn, tư duy sáng tạo và khả năng tự học họ sáng tạo ra các giải pháp kỹ thuật, sáng kiến hoặc sáng chế nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn trong đời sống, sản xuất hoặc cộng đồng.
Với mục tiêu đề xuất được giải pháp thúc đẩy hoạt động phát huy sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên, góp phần nâng cao năng suất lao động, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Năm 2020, Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ đã thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ “Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển hoạt động sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên tại các địa phương”, đề tài do TS. Lê Tiến Hùng làm chủ nhiệm.
Kết quả đánh giá thực trạng hoạt động của các nhà sáng chế không chuyên tại địa phương giai đoạn 2016-2020 cho thấy: hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật ở nước ta diễn ra hết sức sôi nổi ở mọi cấp, mọi ngành, mọi thành phần, lứa tuổi trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có sự tham gia đông đảo của “nhà sáng chế không chuyên”. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành đã tạo nên những “sân chơi” thông qua các Hội thi, Cuộc thi, hoạt động vinh danh những điển hình trong hoạt động sáng kiến, sáng tạo kỹ thuật đã khơi dậy cho những “nhà sáng chế không chuyên”, mặc dù không được đào tạo cơ bản nhưng với tinh thần say mê nghiên cứu, học hỏi, cùng những phẩm chất quý giá của con người Việt là “cần cù, sáng tạo”, hằng năm có rất nhiều sáng kiến, giải pháp kỹ thuật thiết thực, hiệu quả trong sản xuất và đời sống của người dân trên khắp mọi miền đất nước, nhiều giải pháp đã được ứngdụng rộng rãi ở trong cũng như ngoài nước, đã tạo nên phong trào thi đua trong lao động sáng tạo của nhân dân, đóng góp một phần rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đã có nhiều cơ chế, chính sách ở trung ương và địa phương nhằm thúc đẩy hoạt động sáng kiến, sáng chế. Các hoạt động của các cấp, các ngành đã đi vào thực chất, động viên, khích lệ kịp thời, đúng đối tượng, tạo nên phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong các cấp, các ngành, đoàn thể và trong quần chúng nhân dân lao động thông qua các hình thức đánh giá thi đua khen thưởng, thông qua các Hội thi, Cuộc thi từ cấp cơ sở đến toàn quốc, quốc tế... Những điểm mới, phù hợp và những cơ chế khen thưởng kịp thời của Nghị định 13/2012/NĐ-CP, Luật Thi đua, Khen thưởng đã góp phần thúc đẩy hoạt động sáng kiến như: Sáng kiến được thừa nhận trên nhiều lĩnh vực, ngoài các giải pháp trong lĩnh vực kỹ thuật, sáng kiến còn được công nhận trong lĩnh vực quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Quy định rõ quyền lợi cho tác giả sáng kiến và người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu. Bên cạnh những lợi ích về vật chất, sáng kiến còn có giá trị về mặt tinh thần. Các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua khen thưởng quy định sáng kiến thuộc một trong các tiêu chí để công nhận thi đua như: Chiến sĩ thi đua cơ sở; Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Từ đó, vai trò, vị trí của công tác sáng kiến trở nên hết sức quan trọng đối với kết quả làm việc của từng cá nhân.
Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập trong văn bản quy định về hoạt động sáng kiến như: sáng kiến trong Điều lệ sáng kiến, trong Luật Thi đua, Khen thưởng; sáng kiến trong trong một số ngành, lĩnh vực đặc thù, phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến,.. vì vậy quy định về sáng kiến trong các cơ quan, đơn vị sẽ có sự khác nhau nhất định. Những năm qua, các “nhà sáng chế không chuyên” đã đóng góp nhiều sản phẩm có giá trị, được ứng dụng hiệu quả trong sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, trên thực tế các giải pháp của “nhà sáng chế không chuyên” vẫn chưa nhận được những hỗ trợ thiết thực và hiệu quả nhằm đẩy mạnh phong trào sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tạo ra những sản phẩm hữu ích cho xã hội (hỗ trợ về tài chính trong sản xuất thử nghiệm hoặc vay vốn ưu đãi, hỗ trợ về thông tin công nghệ và chuyên gia, thương mại hóa sản phẩm, về đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích,...); chưa có cơ chế hỗ trợ tổ chức gặp mặt, tôn vinh theo định kỳ đối với nhà sáng chế không chuyên tiêu biểu. Chậm ban hành các văn bản, cơ chế, chính sách: Nghị định 13/2012/ NÐ- CP của Chính phủ về sáng kiến được ban hành từ đầu năm 2012, nhưng đến đầu năm 2019 mới có Thông tư quy định về nguồn kinh phí, nội dung và mức chi từ ngân sách nhà nước để thực hiện hoạt động sáng kiến (Thông tư 03/2019/TT-BTC ngày 15/01/2019 của Bộ Tài chính). Tuy nhiên, việc hỗ trợ cho nhóm đối tượng các “nhà sáng chế không chuyên” còn gặp nhiều khó khăn do chưa có hướng dẫn, cơ chế tài chính cụ thể, đặc thù để làm cơ sở hỗ trợ cho nhóm đối tượng này. Dù hoạt động sáng kiến, sáng chế đã trở thành phong trào rộng khắp, nhưng do trình độ chuyên ngành của đa số “nhà sáng chế không chuyên” còn hạn chế, nhiều sáng kiến, giải pháp kỹ thuật được tạo ra để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của chính tác giả, do tác giả tự mày mò, nghiên cứu qua nhiều năm; nhiều sáng kiến, giải pháp kỹ thuật cũng chỉ dừng lại ở mức độ mô hình và quy mô nhỏ, không phát triển, hoàn thiện thành sản phẩm.
Nhận biết được tầm quan trọng của các nhà sáng chế không chuyên đối với phát triển kinh tế, xã hội, đến nay phần lớn các địa phương đã ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích hoạt động sáng kiến, sáng chế, sáng tạo phù hợp với tình hình của địa phương trên cơ sở của Nghị định số 13/2012/NĐ-CP, Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN về hướng dẫn thi hành một số quy định của Điều lệ sáng kiến. Để khẳng định tính ưu việt, đã có nhiều sáng chế, sáng kiến của các nhà sáng chế không chuyên của địa phương tham dự một số sự kiện, chương trình, cuộc thi tầm quốc gia như: kết nối cung- cầu, nhà sáng chế, sáng tạo Việt, cuộc thi sáng chế - sáng tạo công nghệ cho cuộc sống hàng ngày,..đồng thời, các địa phương cũng tổ chức nhiều sự kiện, chương trình, cuộc thi như sáng kiến cộng đồng, sáng tạo kỹ thuật, giải thưởng sáng chế. Qua đó, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động sáng chế, sáng kiến, đổi mới sáng tạo, gia tăng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ của các tầng lớp nhân dân, các nhà sáng chế tại các địa phương nhằm cải thiện năng suất, tạo ra giá trị gia tăng và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Các sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên tại các địa phương được đánh giá có tiềm năng lớn, có thể được ứng dụng, chuyển giao, nhân rộng để phục vụ phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Thực tế cho thấy, số lượng đăng ký, cấp bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích được Cục Sở hữu trí tuệ thông kê hàng tháng, tuy nhiên số lượng sáng kiến thì lại do các cơ sở tự thành lập hội đồng và công nhận (Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN) nên chưa có cơ quan nào đứng ra thống kê, quản lý số lượng sáng kiến hàng năm, mà chủ yếu số lượng sáng kiến hiện nay được các Sở Khoa học và Công nghệ tại các địa phương thống kê, nhưng số liệu cũng chưa thực sự đầy đủ và còn nằm rải rác ở các ngành, địa phương.
Theo Cục Sở hữu trí tuệ, năm 2020 có hơn 125.000 đơn đăng ký (tăng 4,1% so với năm 2019), trong đó gần 77.000 đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp và Cục đã cấp văn bằng bảo hộ cho 48.072 đối tượng sở hữu công nghiệp (tăng 18,1% so với năm 2019). Tuy nhiên, số lượng đơn đăng ký và được cấp bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích của các nhà sáng chế không chuyên không đáng kể. Một trong các nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do các nhà sáng chế không chuyên không có kỹ năng viết đơn đăng ký sáng chế, đặc biệt là viết bản mô tả sáng chế theo mẫu quy định, mặc dù các nhà sáng chế không chuyên có thể diễn tả, mô tả được bằng lời nói rất thành thạo. Bên cạnh đó, theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tính tới ngày 7/4/2021, trên Cổng trực tuyến của Tổng Liên đoàn đã nhận được gần 85 nghìn sáng kiến vượt khó, phát triển của cán bộ công đoàn, đoàn viên từ 82 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng sáng kiến này có được công nhận theo quy định tại Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN của Bộ trưởng Bộ KH&CN hay không thì chưa thực sự rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu đã tổng hợp được Danh mục sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên trên hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước, với 781 sáng chế/60 tỉnh, thành phố đoạt giải trong các cuộc thi ở các cấp khác nhau. Các sáng kiến, sáng chế có tính ứng dụng cao, dễ sử dụng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giải phóng mạnh mẽ sức lao động của người dân, đóng góp một phần rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Số lượng sáng kiến, sáng chế của nhà sáng chế không chuyên được gia tăng hàng năm, được áp dụng ngày càng nhiều bởi chúng giải quyết được các vấn đề cấp thiết mà tại địa phương đang gặp phải; đồng thời việc thiết kế, thử nghiệm, chế tạo các sản phẩm từ sáng kiến, sáng chế này nhìn chung đơn giản, dễ sử dụng, giá thành hợp lý, phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng địa phương, từng ngành, lĩnh vực. Một số sản phẩm đã bước đầu đã có sự lan tỏa ra thị trường quốc tế, tuy nhiên phần lớn các sản phẩm tạo ra của nhà sáng chế không chuyên còn thiếu đồng bộ, chủ yếu tận dụng các thiết bị, máy móc cũ, tái sử dụng nguyên vật liệu, chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn về sản xuất công nghiệp, thị trường chấp nhận nhưng còn ở mức trung bình. Nhiều giải pháp chưa được đăng ký, bảo hộ sáng chế, chưa được công nhận sáng kiến theo quy định, các hoạt động hỗ trợ đưa sản phẩm ra thị trường, hoàn thiện sản phẩm được tạo ra từ sáng kiến, sáng chế sau các sự kiện, cuộc thi chưa thực sự đẩy mạnh, nhân rộng.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, xây dựng danh mục sáng kiến, sáng chế, nhóm tác giả đã đề xuất được các giải pháp phù hợp để thúc đẩy hoạt động sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên tại các địa phương. Cụ thể:
Một là, Hình thành, hoàn thiện và tích hợp cơ sở dữ liệu về sáng kiến, sáng chế của các địa phương với cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ.
Hai là, Hỗ trợ tuyên truyền, truyền thông các sáng kiến, sáng chế có tiềm năng thương mại hóa.
Ba là, Hỗ trợ nhà sáng chế không chuyên trong việc công nhận sáng kiến, xác lập quyền sáng chế, giải pháp hữu ích.
Bốn là, Hỗ trợ nhà sáng chế không chuyên tạo vốn và hoàn thiện sáng kiến, sáng chế để phục vụ cho mục tiêu thương mại hóa,…
Năm là, Thực thi đồng bộ trong quản lý nhà nước về sáng kiến, sáng chế từ trung ương đến địa phương.
Sáu là, Tăng cường liên kết chặt chẽ giữa bốn nhà (nhà sáng chế không chuyên, nhà nước, nhà đầu tư và nhà doanh nghiệp) trong thương mại hóa sáng chế, sáng kiến.
Bảy là, Một số hỗ trợ khác cho các nhà sáng chế không chuyên như thử nghiệmchính sách mua lại các sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên; nghiên cứu, hỗ trợ hoàn thiện sáng chế, sáng kiến đã được áp dụng hiệu quả ở quy mô nhỏ để chuyển giao cho doanh nghiệp áp dụng; các địa phương cần tiếp tục duy trì, đi vào thực chất, không phong trào hóa hoạt động sáng kiến, sáng chế của các nhà sáng chế không chuyên tại địa phương…
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tại tại Trung tâm Thông tin và Truyền thông Hải Phòng hoặc Cục Thông tin, Thống kê./.
- Chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng để... (29/05/2025)
- Nghiên cứu công nghệ tái chế xốp Polyurethane phế thải làm nguyên liệu để chế tạo... (27/05/2025)
- Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về khung cho hệ thống trí tuệ nhân tạo sử... (26/05/2025)
- Nghiên cứu phát triển hệ vật liệu chuyển pha định hình thân thiện môi trường định... (23/05/2025)
- Tổng hợp các hợp chất bán dẫn mới cấu trúc lớp, ứng dụng làm vật liệu... (20/05/2025)