Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 8827
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Nghiên cứu các thảo dược có tác dụng kích thích miễn dịch và phòng trị bệnh dùng trong chăn nuôi (05/12/2025)

Với mục tiêu xác định được ít nhất một loại thảo dược hoặc một hỗn hợp các thành phần thảo dược có tác dụng kích thích miễn dịch, phòng bệnh và kích thích tăng trưởng, sức sản xuất, nhằm tạo thành chế phẩm thảo dược bổ sung vào thức ăn vật nuôi; Tạo được một số chế phẩm từ thảo dược có tác dụng kích thích miễn dịch và phòng trị bệnh ở lợn và gà; Khẳng định được ưu điểm về chất lượng của sản phẩm động vật (thịt, trứng) khi sử dụng thảo dược làm thức ăn bổ sung so với việc sử dụng kháng sinh cho cùng mục đích; Khẳng định được tiềm năng của thảo dược với vai trò là giải pháp thay thế an toàn cho kháng sinh để làm thức ăn bổ sung trong chăn nuôi, không chỉ kích thích miễn dịch, phòng bệnh, kích thích tăng trưởng và tăng năng suất sản xuất, mà còn giúp tạo ra được sản phẩm động vật an toàn, chất lượng cao với giá thành hợp lí cung cấp đến thị trường nội địa và xuất khẩu. Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành triên khai để tài “Nghiên cứu các thảo dược có tác dụng kích thích miễn dịch và phòng trị bệnh dùng trong chăn nuôi” do TS. Nguyễn Thị Thanh Hà làm chủ nhiệm. Đề  tài được triển khai với 5 nội dung, kết quả thu được như sau:

(1) Thu thập và tiến hành chiết xuất một số nguyên liệu thảo dược: Nội dung này với mục tiêu thu thập các thảo dược và tiến hành chiết xuất, cũng như đánh giá hoạt tính sơ bộ của các dịch chiết, bao gồm các chỉ tiêu như hàm lượng polyphenol tổng số và khả năng chống oxi hóa, hàm lượng hoạt chất chính có trong mẫu. Kết quả đã thu thập được những nguyên liệu dược liệu từ 16 loại cây thuốc mục tiêu, trong đó các mẫu thu thập này đều đảm bảo đầy đủ những tiêu chuẩn quy định tại Dược Điển Việt Nam. Các dược liệu được sơ chế, làm sạch và sấy khô ở nhiệt độ 50oC cho đến khi đạt độ ẩm ≤10%. Mẫu khô sau đó được nghiền thành bột mịn (<0,05mm) và đựng trong túi nilong bảo quản trong bình hút ẩm, bảo quản ở nhiệt độ từ 20 đến 25oC tại phòng thí nghiệm. Cụ thể:

Một số mẫu bột thảo dược thu thập được.

- Với tinh dầu: Tinh dầu lá bạch đàn: kết quả kiểm tra của Viện kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm Quốc Gia, mẫu thử nghiệm đạt hàm lượng 61,2%; Tinh dầu vỏ quế: kết quả kiểm tra của Viện kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm Quốc Gia, mẫu thử nghiệm của chúng tôi đạt hàm lượng 89,1%. Kết quả này khẳng định mẫu tinh dầu lá bạch đàn và tinh dầu quế thu được từ thí nghiệm đã đảm bảo tiêu chuẩn để sử dụng làm dược liệu cho mục đích y tế.

- Với bột dược liệu: Bột nụ hoa hòe mẫu thử nghiệm đạt hàm lượng 22,5%; Bột củ nghệ mẫu thử nghiệm đạt 7,74%. Lá xoài theo thử nghiệm đạt hàm lượng 5,13%. Các kết quả này khẳng định mẫu sử dụng trong thí nghiệm đã đảm bảo tiêu chuẩn để sử dụng làm dược liệu cho mục đích y tế.

(2). Khảo sát tác dụng kìm khuẩn, diệt khuẩn của dịch chiết các loại thảo dược trên những vi khuẩn gây bệnh thường gặp trong thú y.Khi khảo sát tác dụng của các dịch chiết trong mối tương quan với hoạt chất chính, nhóm nghiên cứu thấy rằng nhiều trường hợp dược liệu sử dụng ở dạng trọn vẹn của đông y sẽ đem lại hiệu quả cao hơn so với việc chiết tách và chỉ sử dụng hoạt chất chính. Điều này góp phần củng cố quan điểm của đông y, đồng thời cũng tạo ra cơ sở khoa học để nhóm nghiên cứu lựa chọn các dịch chiết và cao toàn phần đem thử nghiệm, cũng như tạo thành các chế phẩm sử dụng trên động vật ở các bước tiếp theo.Căn cứ vào kết quả thí nghiệm, đã lựa chọn những loại cao cho tác dụng tốt và thử nghiệm phối kết hợp với nhau theo những tỷ lệ thường dùng trong đông y, trong đó tô mộc, hoàng liên, xuyên tâm liên được coi là loại cao chính, còn hoa cúc, hoàng kỳ, quế, bạch đàn, nghệ, lá xoài... được coi là các loại loại cao đóng vai trò bổ trợ (theo nguyên tắc “quân, thần, tá, sứ”). Kết quả thí nghiệm cho thấy 4 phối hợp cao dược liệu dưới đây cho tác dụng ức chế vi khuẩn tốt hơn hẳn so với sử dụng từng loại cao đơn lẻ.

(3) Tiến hành bào chế thành dạng chế phẩm bổ sung vào thức ăn: Từ các kết quả về lựa chọn tá dược độn, tá dược dính và tỷ lệ cao dược liệu/ tá dược, chúng tôi đã xác định được công thức bào chế thích hợp nhất là sử dụng tá được độn là tinh bột theo tỷ lệ 1 phần cao 4 phần tá dược, sau đó kết hợp với tá dược dính là hồ tinh bột để chia viên. Để chắc chắn là công thức này phù hợp, chúng tôi đã tiến hành bào chế thử nghiệm thành các lô thuốc với những viên thuốc hoàn chỉnh và đánh giá lại chất lượng của các lô đó. Cụ thể, chất lượng của thuốc hoàn sau bào chế và sau sấy được chúng tôi kiểm chứng theo những chỉ tiêu sau Chỉ tiêu cảm quan: Hoàn phải tròn, đều, đồng nhất về hình dạng, màu sắc khi bảo quản, có mùi đặc trưng của dược liệu; Chỉ tiêu độ ẩm: chỉ tiêu chất lượng về độ ẩm của thuốc hoàn được quy định theo như sách Dược điển Việt Nam IV, theo đó viên hoàn được phép có hàm ẩm cao hơn so với các dạng viên khác. Cụ thể như hoàn mật ong không quá 15%; thủy hoàn: không quá 12%; hồ hoàn: không quá 9%. Vì trong công thức bào chế nhóm nghiên cứu sử dụng dạng hồ hoàn nên áp dụng tiêu chuẩn không quá 9% cho độ ẩm của thuốc.Chỉ tiêu độ rã: Dạng hồ hoàn yêu cầu không quá 2 giờ là viên thuốc phải rã hoàn toàn; Chỉ tiêu độ đồng đều về khối lượng (Quy đinh theo tiêu chuẩn Việt Nam, Giáo trình Kiểm nghiệm thuốc. Mục: Kiểm nghiệm thuốc có nguồn gốc dược liệu; phần 3.4. Kiểm nghiệm thuốc hoàn. Trang 360-362). Đối với hoàn uống theo viên: Cân 10 viên, xác định khối lượng từng viên. Sự chênh lệc khối lượng của từng viên so với khối lượng trung bình phải nằm trong giới hạn như ở bảng 17, trong đó, không được có quá 2 viên vượt giới hạn cho phép và không được có viên nào gấp đôi giới hạn cho phép.

(4) Tiến hành bổ sung thảo dược vào thức ăn trên các đối tượng thí nghiệm:

- Kết quả thí nghiệm với gà thịt: ác kết quả đạt được từ thí nghiệm với gà đẻ cho thấy việc bổ sung dược liệu có thể tạo ra hiệu quả tương đương so với kháng sinh, nhưng không có tồn dư tiêu cực trong sản phẩm động vật. Trong số các dược liệu và phối trộn dược liệu được sử dụng, thì phối trộn 4 kết hợp giữa 50 % hoàng liên, 25 % xuyên tâm liên, 25% hoàng kỳ cho hiệu quả tốt nhất trong việc kích thích tăng trưởng, kích thích hệ miễn dịch và giúp cơ thể chống lại bệnh một cách tự nhiên.

- Kết quả thí nghiệm với gà đẻ: Kết quả nghiên cứu của nhóm nghiên cứu khẳng định việc sử dụng dược liệu và phối trộn giúp tăng cường chất lượng của sản phẩm trứng gà, không chỉ ở khía cạnh an toàn không tồn dư độc hại mà còn cả khía cạnh hình thức, cụ thể là giúp màu sắc lòng đỏ đẹp hơn, do đó dễ bán và dễ tiêu thụ hơn do phù hợp với tâm lý của người tiêu dùng. Trong số các nguyên liệu thử nghiệm, phối trộn 4 của dược liệu (50 % cao hoàng liên, 25 % cao xuyên tâm liên và 25 % cao hoàng kỳ) cho tác dụng rõ rệt nhất.

- Kết quả thí nghiệm với lợn thịt:Các kết quả đạt được từ nội dung thí nghiệm với lợn thịt cho thấy việc bổ sung dược liệu có thể tạo ra hiệu quả tương đương so với kháng sinh, nhưng không có tồn dư tiêu cực trong sản phẩm động vật. Trong số các công thức dược liệu thì chế phẩm phối trộn có xu hướng mang lại hiệu quả tốt hơn so với đơn dược. Công thức phối trộn 4 (50% hoàng liên, 25% xuyên tâm liên và 25% hoàng kỳ) cho hiệu quả tốt nhất trên gà, trong khi công thức phối trộn 1 (50% tô mộc, 25% hoàng liên và 25 % hoa cúc) cho hiệu quả tốt nhất trên lợn trong các tác dụng như kích thích tăng trưởng, kích thích hệ miễn dịch và phòng bệnh tự nhiên tốt đối với lợn.

(5) Tiến hành gây bệnh thực nghiệm một số bệnh phổ biến cho vật nuôi sau một thời gian bổ sung thảo dược mà không tiến hành điều trị: Đánh giá các chỉ tiêu về mức độ phòng và bảo hộ bệnh của thảo dược thông qua đánh giá tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết, mức độ đáp ứng miễn dịch với tác nhân gây bệnh. Ngoài ra, các chỉ tiêu về sức khỏe, năng suất chất lượng sản phẩm trong quá trình gây bệnh cũng được thu thập để đánh giá mức độ suy giảm của những chỉ tiêu này gây ra do quá trình nhiễm bệnh. Kết quả cụ thể như sau:

- Kết quả trên gà thịt: dược liệu không tạo ra hiệu quả trong việc làm giảm các triệu chứng và tỷ lệ chết ở những lô vịt thí nghiệm. Bằng việc so sánh kết quả thử nghiệm in vivo, chúng tôi nhận thấy việc bổ sung các dược liệu không tạo ra được ảnh hưởng tích cực trên vịt. Điều này có thể là do những cơ chế chi phối hoạt động vận mạch của dược liệu, mà điển hình là cơ chế kích thích tế bào thành mạch tiết NO, là kém hiệu quả hơn ở vịt so với các loài khác. Vì việc gây bệnh thực nghiệm với triệu chứng thần kinh trên gà là không rõ rệt, và với vịt thì khi gây bệnh thành công tác dụng của nhóm chế phẩm dược liệu cũng không rõ rệt. Vì vậy trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chưa phát triển được nhóm chế phẩm dược liệu cho mục đích điều trị nhóm bệnh này.

- Kết quả trên gà đẻ: liều dùng hợp lý nhất của chế phẩm để phòng bệnh là 2,5 g/ kg thức ăn, do tại liều này các chế phẩm giúp giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết, tỷ lệ hao hụt khối lượng và tỷ lệ giảm đẻ xuống mức thấp hơn so với các nồng độ khác. Ở liều 1,5 g/ kg thức ăn, hiệu quả bảo hộ thấp có thể do chưa đạt đến liều cho tác dụng rõ rết. Ngược lại, liều 3,5 g/ kg thức ăn không cho hiệu quả rõ như liều 2,5 g/ kgP, đồng thời lượng chế phẩm sử dụng lại là nhiều hơn, có thể làm gia tăng chi phí chăn nuôi. Vì thế, chúng tôi thấy liều 2,5 g/ kg thức ăn là phù hợp nhất cho đối tượng gà thịt trong phòng bệnh. Như vậy, chế phẩm dược liệu có tác dụng phòng ngừa cả bệnh tiêu chảy và bệnh hô hấp, nhưng tác dụng trên bệnh tiêu chảy rõ rệt hơn. Trong đó, chế phẩm 4 (50 % hoàng liên, 25 % xuyên tâm liên, 25 % hoàng kỳ) cho tác dụng rõ rệt nhất gà, đồng thời cũng ít ảnh hưởng đển tỷ lệ đẻ của gà nhất.

- Kết quả trên lợn thịt: liều dùng hợp lý nhất của chế phẩm để phòng bệnh là 2,5 g/ kg thức ăn, do tại liều này các chế phẩm giúp giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết, tỷ lệ hao hụt khối lượng xuống mức thấp hơn so với các nồng độ khác. Ở liều 1,5 g/ kg thức ăn, hiệu quả bảo hộ thấp có thể do chưa đạt đến liều cho tác dụng rõ rết. Ngược lại, liều 3,5 g/ kg thức ăn không cho hiệu quả rõ như liều 2,5 g/ kgP, đồng thời lượng chế phẩm sử dụng lại là nhiều hơn, có thể làm gia tăng chi phí chăn nuôi. Vì thế, chúng tôi thấy liều 2,5 g/ kg thức ăn là phù hợp nhất cho đối tượng lợn trong phòng bệnh hô hấp. Như vậy, chúng tôi nhận thấy chế phẩm dược liệu có tác dụng phòng ngừa cả bệnh tiêu chảy và bệnh hô hấp, nhưng tác dụng trên bệnh tiêu chảy rõ rệt hơn. Trong đó, chế phẩm 1 (50 % tô mộc, 25 % hoàng liên, 25 % hoa cúc) cho tác dụng rõ rệt nhất trên bệnh tiêu chảy lợn, đồng thời cũng ít ảnh hưởng đển khả năng sinh trưởng của lợn nhất.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu nhiệm vụ  tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.