Chuyên mục
Đang trực tuyến : | 35015 |
Tổng truy cập : | 57,998 |
Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN
Nghiên cứu chuyển đổi giới tính cá bống bớp (Bostrichthys sinensis Lacépède, 1801) giống ở Hải Phòng (02/09/2024)
Cá bống bớp (Bostrichthys sinensis Lacépède, 1801) là đối tượng có sức chịu đựng sự thay đổi môi trường cao, cá sống được ở biên độ dao động độ mặn từ 3 - 32‰ và có thể nuôi được ở tất cả khu vực nước lợ của các vùng ven biển. Cá bống bớp thương phẩm là một trong những đối tượng dễ tiêu thụ với giá thành tương đối ổn định. Cá ở các kích cỡ khác nhau đều có nhu cầu lớn.
Các mô hình nuôi cá bống bớp hiện nay đạt khối lượng tăng trưởng trung bình từ 12-15 con/kg và thường đạt tỷ lệ sống thấp, tỷ lệ hao hụt cao và chủ yếu là cá cái. Trong quần đàn, cá cái thường tăng trưởng chậm và tuổi thành thục của cá sớm. Là loài cá đẻ nhiều lần trong năm, cá có thể sinh sản trong ao nên cá cái nuôi sẽ chậm lớn. Đối với cá đực thường có kích thước và khối lượng lớn hơn cá cái. Trong suốt thời gian nuôi, cá bị chết ít hơn là cá cái. Cá cái có kích cỡ nhỏ hơn so với cá đực, kích cỡ không đều khi thu hoạch dẫn đến năng suất không thể tăng cao, đem lại hiệu quả thấp. Do vậy, khi nuôi cá bống bớp thương phẩm, người nuôi thường thích cá đực hơn cá cái. Tuy nhiên chưa có cơ sở sản xuất giống nào trên địa bàn có thể đáp ứng được nhu cầu giống cá bống bớp đực cho người nuôi.
Ở vùng ven biển Hải Phòng, loài cá bống bớp phân bố rộng khắp từ vùng cửa sông ven biển đến các ao đầm nước mặn, nước lợ. Với tiềm năng diện tích mặt nước lớn, việc phát triển kỹ thuật nuôi loài cá bống bớp ở Hải Phòng sẽ tạo ra nguồn sản phẩm lớn cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Chính vì vậy, thành công trong sinh sản và nuôi thương phẩm đối tượng này sẽ giúp người dân phát triển nghề nuôi thương phẩm cá bống bớp đực ở Hải Phòng nói riêng và một số tỉnh miền Bắc nước ta nói chung. Bên cạnh đó tận dụng được diện tích ao đầm bỏ hoang do tình hình dịch bệnh từ các đối tượng nuôi truyền thống, qua đó giảm áp lực khai thác nguồn lợi tự nhiên.
Thu cá bống bớp thương phẩm.
Triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu thu thập thông tin liên quan tới sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá bống bớp; nghiên cứu xây dựng quy trình chuyển đổi giới tính cá bống bớp giống bằng hormone 17α-Methyltestosteron (hormone 17α-MT) với các nồng độ 3, 5, 7ppm trong thời gian 1 ngày và 2 ngày, ở các thời điểm cá 6 ngày tuổi, 12 ngày tuổi, 18 ngày tuổi và 24 ngày tuổi cho kết quả: tỷ lệ sống trung bình ở giai đoạn ương từ khi cá mới nở đến 30 ngày tuổi lần lượt là 18,2%, 19,1%, 20,4% và 21,3%; giai đoạn 30-105 ngày tuổi, tỷ lệ sống trung bình lần lượt là 64,6%, 67%, 70,5% và 71,6%. Nghiên cứu cũng cho thấy, việc sử dụng hormone ở cá bống bớp ở các thời điểm khác nhau không ảnh hưởng đến tỷ lệ chuyển đổi giới tính, tăng trưởng chiều dài và khối lượng của cá bống bớp. Riêng tại thời điểm xử lý hormone 24 ngày tuổi sau khi nở đã ảnh hưởng đến tỷ lệ chuyển đổi giới tính cá bống bớp và tỷ lệ chuyển cá đực cao nhất ở nồng độ 7ppm khi ngâm cá trong 2 ngày liên tục đạt 86,2%.
Từ kết quả trên, nghiên cứu tiến hành thực nghiệm xử lý cá bống bớp 24 ngày sau khi nở bằng hormone 17α-MT với nồng độ 7ppm trong thời gian ngâm 2 ngày liên tục theo 02 đợt. Đợt 1, số lượng cá thực nghiệm ở quy trình chuyển đổi giới tính cá là 5.000 con/lô, bao gồm 03 lô thực nghiệm; đợt 2 là 3.000 con/lô cũng gồm 03 lô thực nghiệm. Kết quả cho thấy, tỷ lệ sống từ khi cá nở đến 30 ngày cao nhất đạt 21,5%; tỷ lệ sống từ 30 đến 105 ngày tuổi cao nhất đạt 72,6% và tỷ lệ cá đực đạt cao nhất 86,9% ở nồng độ 7ppm khi ngâm 2 ngày ở cá 24 ngày tuổi sau khi nở. Lợi nhuận thu được khi sản xuất 10.000 con giống cá bớp đực, kích thước 2-2,5 cm/con trong 30 ngày đạt 2.150.000 đồng; ương nuôi 10.000 con giống cá bớp đực, kích thước 8-10 cm/con trong 75 ngày cho lợi nhuận đạt 10 triệu đồng. Theo đánh giá, lợi nhuận này chưa thực sự cao do các các chi phí tiến thành thí nghiệm, thử nghiệm. Tuy nhiên, trong thực tiễn tiễn sản xuất, tiến hành áp dụng quy trình sau khi đã rút ra từ các kết quả nghiên cứu, hiệu quả kinh tế đem lại sẽ cao hơn nhiều do các điều kiện sản xuất là tối ưu cho sinh trưởng, phát triển và tỷ lệ sống của con giống.
Nghiên cứu đã tiến hành nuôi thương phẩm cá bống bớp sau khi chuyển đổi giới tính trên 03 ao nuôi thuộc Trại sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản Ngọc Sơn - Đồ Sơn - Hải Phòng. Sau 9 tháng nuôi thương phẩm cá bống bớp đực, chiều dài cá thương phẩm đạt từ 21-22cm/con; khối lượng cá thương phẩm trung bình đạt 123g/con; tỷ lệ sống trung bình 67,5%; hệ số thức ăn 5,6; năng suất bình quân 8,3 tấn/ha/vụ.
Từ các kết quả nghiên cứu trên, nghiên cứu cũng đề xuất 02 quy trình: Quy trình chuyển đổi giới tính cá bống bớp bằng hormon 17α-methyltestosteron; Quy trình nuôi thương phẩm cá bống bớp sau khi chuyển đổi giới tính. Trong đó, ở quy trình chuyển đổi giới tính cá bống bớp, giai đoạn sinh sản cá bống bớp, tiến hành chọn cá bố mẹ đã thành thục, tiêm kích dục tố, cá đẻ trứng, ấp trứng, sau 3 ngày cá bắt đầu ăn thức ăn ngoài, gồm Artemia bung dù, Nauplius artemia và thức ăn tổng hợp. Duy trì nhiệt độ nước từ 25-30oC, độ mặn 17‰, mật độ ương 50 cá thể/lít. Nghiên cứu tiến hành theo dõi, chăm sóc, cho ăn, vệ sinh, thay nước và ương nuôi từ khi cá nở đến 23 ngày tuổi. Giai đoạn từ khi cá nở đến 30 ngày tuổi sau nở, tiếp tục duy trì nhiệt độ nước từ 25-30oC, độ mặn 17‰, thay đổi mật độ ương thành 10 cá thể/lít. Cá 24 ngày tuổi sau khi nở được xử lý hormone 17α-methyltestosteron nồng độ 7ppm, thời gian ngâm 2 ngày. Trong suốt giai đoạn này, cá được cho ăn bằng Artemia nở và thức ăn tổng hợp; tiến hành hành theo dõi, chăm sóc, cho ăn, vệ sinh, thay nước. Khi cá được 30 ngày tuổi chuyển ương đến 105 ngày tuổi trong bể hoặc ao ương. Giai đoạn này, nhiệt độ nước duy trì từ 20-30oC, độ mặn 10-15‰, DO từ 4-6 mg/l; mật độ ương 100 cá thể/m2 trong thời gian 75 ngày. Cho cá năn 50% cá tạp và 50% thức ăn công nghiệp, sau đó tiến hành thu hoạch.
Với quy trình nuôi thương phẩm cá bống bớp, giai đoạn chuẩn bị ao nuôi tiến hành lựa chọn ao nuôi thuận lợi cho việc cấp và thoát nước. Diện tích ao nuôi từ 500-2.000m2; tiến hành phơi khô ao, cải tạo, bón vôi, bón phân gây màu; đảm bảo ao có độ pH 7,5-8,5, độ mặn 5-25‰; độ trong: 30-50cm; DO>4,0 mgO2/l. Chọn cá giống khỏe mạnh, có kích cỡ đồng đều, không có dấu hiệu bệnh; kích cỡ cá thả 8,0-12,0 cm/con; mật độ nuôi 10 con/m2. Thường xuyên theo dõi ao, kiểm tra cá ở vó; định kỳ thay nước từ 10-15 ngày/lần lượng nước thay 20-70%; kiểm tra tăng trưởng cá nuôi. Cho cá ăn thức ăn 50% cá tạp và 50% thức ăn công nghiệp; lượng cho ăn từ 5-7% khối lượng thân; bổ sung trong thức ăn các vitamin tổng hợp và chất khoáng. Phòng và trị bệnh cho cá bằng cải tạo ao đầm nuôi tốt; quản lý môi trường ao nuôi và nâng cao sức đề kháng của cá. Sau 9 tháng nuôi, cá đạt khối lượng 110-130 g/con, tỷ lệ sống trên 65% tiến hành thu hoạch.
Kết quả nghiên cứu đề tài là cơ sở khoa học quan trọng và cần thiết để phát triển nghề sản xuất giống cá bống bớp đực có giá trị kinh tế vùng ven biển Hải Phòng; đồng thời giúp các hộ nuôi trồng thủy sản chủ động về con giống cá bống bớp đực đảm bảo số lượng, chất lượng; tạo thêm một đối tượng nuôi có giá trị xuất khẩu mới.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài tại Trung tâm Thông tin, Thống kê KH&CN Hải Phòng./.
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới nanoindentation trong đánh giá tính chất cơ học... (18/05/2025)
- Nghiên cứu khả năng ứng dụng gia cố đất lateritic bằng chất kết dính geopolymer tro... (16/05/2025)
- Nghiên cứu công nghệ, thiết kế chế tạo hệ thống thiết bị chuyên dùng thu gom, thiêu... (12/05/2025)
- Nghiên cứu công nghệ, thiết kế chế tạo hệ thống thiết bị chuyên dùng thu gom, thiêu... (12/05/2025)
- Đánh giá dịch vụ hệ sinh thái ven biển Việt Nam dưới tác động của quá trình đô thị... (09/05/2025)
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp an toàn phòng, chữa cháy khi xây dựng và vận hành... (07/05/2025)