Chuyên mục
| Đang trực tuyến : | 14708 |
| Tổng truy cập : | 57,998 |
Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN
Nghiên cứu đánh giá mức độ phơi nhiễm Crom trong bụi xi măng và đề xuất chỉ số giám sát sinh học (21/11/2025)
Phân viện Khoa học An toàn vệ sinh lao động và Bảo vệ môi trường Miền Nam chủ trì thực hiện đề tài Nghiên cứu đánh giá mức độ phơi nhiễm Crom trong bụi xi măng và đề xuất chỉ số giám sát sinh học, ThS. Huỳnh Đức Thắng làm chủ nhiệm.
Nghiên cứu thực hiện trên 423 người lao động ngành xi măng, trong đó nhóm phơi
nhiễm (bao gồm các bộ phận sản xuất xi măng, clinker, kho, bảo trì, quản lý chất lượng) là 60,3%, nhóm chứng (bao gồm các bộ phận thuộc khối văn phòng, nhà ăn, bảo vệ) là 39,7%. Đặc điểm về giới tính lao động của nhóm phơi nhiễm có 97,7% là nam giới trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm không tiếp xúc là 72%. Sự khác nhau về tỷ lệ giới tính có thể do đặc thù ngành sản xuất xi măng nên nhu cầu sử dụng lao động nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn so với các công việc văn phòng, tạp vụ, bảo vệ,… Tuổi đời ở nhóm chứng là 45,1±10,5 cao hơn nhóm phơi nhiễm là 39,5±6,2 và sự khác nhau có ý nghĩa thống kê thể hiện qua kiểm định Chi bình phương có giá trị p < 0,001. Tuổi nghề thì nhóm chứng có tuổi nghề trung bình là 14,5±10,1 năm cao hơn nhóm phơi nhiễm là 6,6±3,8 năm và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Trong đó, lao động có tuổi nghề trên 5 năm ở nhóm phơi nhiễm chiếm tỷ lệ 38,4% cao hơn nhóm chứng có tỷ lệ là 28%. Về chỉ số BMI, ở nhóm chứng có trung bình là 23,6±3,6 cao hơn nhóm phơi nhiễm với trung bình là 21,4±3,4; trong đó, chỉ số BMI ≥ 23 ở nhóm chứng chiếm tỷ lệ 56,6%, còn nhóm phơi nhiễm chiếm 33,7%.

Lấy mẫu tại khu vực trong nhà máy xi măng.
Nhà máy NM1, độ tuổi trung bình là 42,4 tuổi với nhóm tuổi từ 40 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất (54,9%), 100% lao động là nam. Người lao động làm ở công đoạn sản xuất xi măng và sản xuất clinker chiếm tỷ lệ 62,8%; bộ phận quản lý chất lượng và bảo trì chiếm 37,2%. Tuổi nghề trung bình là 6,1 năm; hầu hết người lao động làm việc tại nhà máy trên 5 năm chiếm đến 60,8%. BMI trung bình theo tham khảo từ kết quả khám sức khỏe định kì là 21,7; đa số người lao động thuộc nhóm BMI từ <23; đây là mức BMI bình thường cần được duy trì. Nhà máy NM2, độ tuổi trung bình là 45,0 tuổi với nhóm tuổi từ 40 tuổi trở lên chiếm
tỷ lệ cao nhất (76,0%), nam chiếm 100%. Người lao động làm ở công đoạn sản xuất xi măng và sản xuất clinker chiếm tỷ lệ 72%, kho và bảo trì chiếm 28%, tuổi nghề trung bình là 6,0 năm. Hầu hết người lao động làm việc tại cơ sở trên 5 năm chiếm đến 60,0%. BMI trung bình theo tham khảo từ kết quả khám sức khỏe định kì là 20,6; đa số người lao động thuộc nhóm BMI từ < 23, đây là mức BMI bình thường cần được duy trì. Nhà máy NM3, độ tuổi trung bình là 39,4 tuổi với nhóm tuổi từ 18-39 tuổi chiếm tỷ lệ 72,6%, nam chiếm phần lớn với 96,7%. Người lao động làm ở công đoạn sản xuất xi măng và sản xuất clinker chiếm 49,8%, bảo trì chiếm 16,7%, bộ phận nguyên liệu 16,2%. Tuổi nghề trung bình là 6,8 năm, hầu hết người lao động làm việc tại cơ sở trên 5 năm chiếm đến 62%. BMI trung bình theo tham khảo từ kết quả khám sức khỏe định kì là 21,4, đa số người lao động thuộc nhóm BMI từ <23, đây là mức BMI bình thường cần được duy trì.
Quan trắc bụi và crom trong MTLĐ của nhà máy xi măng cho thấy, nồng độ bụi tổng trung bình tại nhà máy NM1 cao nhất là 15,47 ± 1,59 mg/m3, tiếp theo là nhà máy NM2 là 13,72 ± 1,83 mg/m3, thấp nhất là nhà máy NM3 với bụi tổng trung bình là 10,65 ± 0,73 mg/m3. Bụi tổng trung bình trong các nhà máy xi măng vượt TWA cho phép (theo QCVN 02:2019/BYT đối với bụi xi măng Portland là 4 mg/m3), mùa mưa và mùa nắng có bụi tổng trung bình lần lượt là 10,65 ± 0,83 mg/m3 và 13,38 ± 0,96 mg/m3.
Quan trắc tổng crom ở 3 nhà máy cho thấy, tổng crom trung bình của 3 nhà máy xi măng là 0,313 ± 0,013 mg/m3. Trong mùa nắng có 107 lao động tiếp xúc với tổng crom lớn hơn giới hạn định lượng của phương pháp với nồng độ trung bình là 0,315 ± 0,016 mg/m3, trong đó có 9 lao động tiếp xúc vượt giới hạn cho phép (>0,5 mg/m3). Mùa mưa có 90 lao động tiếp xúc với tổng crom lớn hơn giới hạn định lượng với nồng độ trung bình là 0,3 ± 0,014 mg/m3, có 3 lao động tiếp xúc với tổng crom lớn hơn giới hạn cho phép. Mặc dù, nồng độ tổng crom tiếp xúc mùa nắng cao hơn mùa mưa nhưng sự khác biệt này không đáng kể, giá trị p = 0,47 >0,05 nên không có ý nghĩa thống kê.
Về mức độ phơi nhiễm crom, phơi nhiễm tổng crom qua đường hô hấp là 9,08 x 10-2 ± 4,36 x 10-2 mg/kg/ngày và qua da là 4,5 ± 2,16 mg/kg/ngày trong đó phơi nhiễm tổng crom trung bình ở nhà máy NM2 cao nhất với đường hô hấp là 10,38 x 10-2 ± 3,79 x 10-2 mg/kg/ngày và qua da là 5,14 ± 1,87 mg/kg/ngày. Kế tiếp, phơi nhiễm tổng crom trung bình qua hô hấp, qua da là nhà máy NM3 và nhà NM1. Theo đó kết quả quan trắc tổng crom trung bình tại nhà máy NM2 cao nhất rồi đến nhà máy NM1 và NM3.
Kết quả thu thập thông tin cho thấy người lao động ở nhóm phơi nhiễm trong năm
2023 có sức khỏe loại II (tốt) có tỉ lệ cao nhất là 71,0%. Còn lại là sức khỏe loại I (rất tốt) chiếm 11,8%; sức khỏe loại III (trung bình) có 16,9%, sức khỏe loại IV có 1 trường hợp chiếm 0,3%, không có trường hợp nào sức khỏe loại V (rất yếu). Đánh giá chất chuyển hóa của crom trong niệu, nghiên cứu thực hiện trên 423 người lao động ngành xi măng, trong đó nhóm tiếp xúc (bao gồm các bộ phận sản xuất xi măng, clinker, kho, bảo trì, quản lý chất lượng) là 60,3%, nhóm đối chứng (bao gồm các bộ phận thuộc khối văn phòng) là 39,7%. Nghiên cứu cũng cho thấy, nồng độ MDA niệu ở nhóm phơi nhiễm có trung vị là 0,29 mg/L (tứ phân vị: 0,18 - 0,42 mg/L), cao hơn nhóm đối chứng với trung vị là 0,17 mg/L (tứ phân vị: 0,14 - 0,19 mg/L). Nồng độ MDA niệu ở nhóm phơi nhiễm với crom có trung vị cao hơn nhóm chứng 1,7 lần, phân tích kiểm định Mann-whitney tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ MDA niệu ở hai nhóm nghiên cứu (p < 0,001).
Từ những nghiên cứu trên, Ban chủ nhiệm đề tài đề xuất chỉ số giám sát sinh học crom trong niệu là 25µg/L cho mẫu cuối ca của ngày làm việc cuối tuần, đối với tiếp xúc crom (VI) oxide trung bình là 0,05 mg/m3 cho ca làm việc 8 giờ. MDA trong niệu dễ thay đổi theo đặc điểm cá nhân người lao động và các yếu tố ngoại lai khác không phải do crom vì vậy nghiên cứu không đề xuất chỉ tiêu MDA trong nước tiểu là chỉ số giám sát sinh học.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.
- Nghiên cứu xây dựng và áp dụng bộ tiêu chí, tiêu chuẩn chuyên gia năng suất quốc... (04/12/2025)
- Phát triển doanh nghiệp Logistic tại thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh... (26/11/2025)
- Nghiên cứu chế tạo thiết bị và xây dựng quy trình công nghệ thấm nitơ thể... (24/11/2025)
- Nghiên cứu sử dụng cát nhiễm mặn làm vật liệu san, đắp nền đường (21/11/2025)
- Đổi mới hoạt động của các Trung tâm dịch vụ việc làm đến năm 2030 (19/11/2025)
