Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 12507
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Nghiên cứu, đề xuất đề án xây dựng Hải Phòng trở thành trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ biển (20/08/2025)

Hải Phòng là thành phố cửa ngõ ra biển kết nối với thế giới của cả miền Bắc; cảng quan trọng phía bắc đất nước, trung tâm công nghiệp, cảng biển của vùng đồng bằng sông Hồng. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm ban hành nhiều các văn bản, Nghị quyết định hướng để Hải Phòng trở thành trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ biển nhằm phát huy ưu thế về vị trí chiến lược, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Với mục tiêu phân tích, đánh giá được hiện trạng đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ biển tại một số quốc gia trên thế giới, trong nước và khả năng triển khai tại Hải Phòng; đề xuất các nội dung, giải pháp và các kiến nghị cơ bản để xây dựng Hải Phòng trở thành trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ (KH&CN) biển. Năm 2024, Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng đã chủ trì thực hiện nhiệm vụ “Nghiên cứu, đề xuất đề án xây dựng Hải Phòng trở thành trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ biển” do TS. Nguyễn Đắc Bình Minh làm chủ nhiệm.

 

Triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu tổng quan lý thuyết và thực tiễn kinh nghiệm của các nước về hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ biển. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra khái niệm cơ bản về trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ biển được hiểu là nơi tập trung các hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ biển với nước ngoài, nơi có cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật tầm cỡ quốc tế, nơi thu hút nhiều nhà khoa học, chuyên gia, giáo sư, sinh viên là người nước ngoài đến giảng dạy, học tập, nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ về biển. Trung tâm là nơi thu hút nhiều nguồn FDI từ các đơn vị, nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư vào Hải Phòng với nhiều ngành nghề liên quan đến biển. Tổng kết từ các nghiên cứu, tài liệu, thông tin đã được công bố tại Việt Nam và trên thế giới thì trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ biển có những đặc điểm như sau: (1) Trong lĩnh vực đào tạo khoa học công nghệ biển: Có cơ sở hạ tầng phục vụ đào tạo KH&CN biển mang tầm cỡ quốc tế bao gồm: Giảng đường, thư viện, ký túc xá, phòng Lab, mô hình, thiết bị…; đội ngũ thực hiện công tác đào tạo mang tầm vóc quốc tế; có sinh viên nội địa mang tầm cỡ quốc tế và sinh viên quốc tế, ngôn ngữ giảng dạy tiếng nước ngoài phổ biến, có sinh viên nước ngoài…(2)Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ biển có cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động nghiên cứu KH&CN biển mang tầm cỡ quốc tế bao gồm: Phòng Lab, khu thực hành và trưng bày các sản phẩm nghiên cứu KH&CN biển, trang thiết bị phục vụ hoạt động nghiên cứu theo lĩnh vực…; có các chuyên gia, nhà nghiên cứu mang tầm vóc quốc tế, có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu, được đồng nghiệp quốc tế cùng ngành công nhận, có bề dày nghiên cứu về chuyên ngành của mình, có công bố nghiên cứu trên các tập san quốc tế có kinh nghiệm lãnh đạo nhóm nghiên cứu quốc tế; có hợp tác nghiên cứu với quốc tế theo các lĩnh vực chuyên ngành.(3)Trong lĩnh vực ứng dụng khoa học công nghệ biển: Có cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động ứng dụng KH&CN biển mang tầm cỡ quốc tế bao gồm: Phòng Lab, khu thử nghiệm ứng dụng KH&CN biển…;có những sản phẩm ứng dụng KH&CN biển mang tầm vóc quốc tế và được thị trường quốc tế chấp nhận tin tưởng sử dụng; có hợp tác nghiên cứu chuyển giao ứng dụng KH&CN biển với quốc tế theo các lĩnh vực chuyên ngành. Qua khảo sát kinh nghiệm đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ biển tại Mỹ, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số thành phố như: Busan – Hàn Quốc, Thanh Đảo – Trung Quốc, nhóm nghiên cứu đã rút ra được một số bài học giúp Hải Phòng có thể trở thành trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ biển.

Kết quả phân tích đánh giá tiềm năng, lợi thế và những thách thức trở thành Trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển cho thấy: Vị trí địa lý của Hải Phòng nằm ở vị trí chiến lược, có khả năng kết nối tốt bằng đường biển, đường bộ, đường sắt và đường hàng không là yếu tố thuận lợi thu hút các nguồn lực từ các nơi trên thế giới; đường bờ biển dài, các vịnh, đảo và bán đảo đa dạng sinh học về các loài và tài nguyên biển, tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo biển là điều kiện thuận lợi để thu hút, hợp tác với các nước trên thế giới trong việc nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển; Hải Phòng hội tụ đủ năm trục kinh tế trọng tâm của kinh tế biển có tiềm năng phát triển bao gổm: (1) Khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển; (2) cảng, dịch vụ cảng, dịch vụ hàng hải, vận tải biển, hậu cần logistic; (3) kinh tế thủy sản,nuôi trổng, khai thác, chế biến; (4) du lịch biển đảo; (5) năng lượng biển, dầu khí. Với quy mô nền kinh tế ngày càng gia tăng, hoạt động cảng biển, logistics, du lịch, thương mại phát triển mạnh nhiều khu, cụm công nghiệp, là nguồn lực quan trọng để thu hút, các chuyên gia, nhà nghiên cứu quốc tế phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển; dân số đông, số lượng người lao động có trình độ qua đào tạo cao là một lợi thế lớn để các công ty, tổ chức nước ngoài vào đầu tư phát triển, tạo lực hút để Hải Phòng có thể trở thành trung tâm với nhiều lĩnh vực liên quan đến biển. Bên cạnh đó, Hải Phòng là nơi tập trung các trường đại học, viện nghiên cứu đầu ngành về biển là địa bàn thuận lợi để triển khai các hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển. Có đủ điều kiện trở thành hạt nhân thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhà nghiên cứu, các tổ chức nghiên cứu về khoa học công nghệ biển trên toàn thế giới về hoạt động. Với những đặc trưng nổi bật trên nhóm nghiên cứu cũng đưa ra những quan điểm về thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế biển của thành phố. Cụ thể, về thuận lợi, Hải Phòng có 2 khu bảo tồn biển là Bạch Long Vỹ và Cát Bà, diện tích bờ biển 180km2, có 397 đảo ven bờ. So với cả nước, số lượng đảo vùng bờ đứng vị trí thứ 3, chỉ sau vùng bờ tỉnh Quảng Ninh và vùng bờ tỉnh Kiên Giang. Một trong 4 ngư trường trọng điểm của cả nước. Trữ lượng hải sản vùng biển đạt gần 160 nghìn tấn chiếm khoảng 20% tổng trữ lượng hải sản vùng Vịnh Bắc Bộ…Hải Phòng là nơi có nhiều lợi thế về du lịch như có khu du lịch Đồ Sơn, Hòn Dấu, đảo ngọc Cát Bà,  nhiều điểm di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng như Đền Nghè, sông Bạch Đằng lịch sử…Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng giao thông, đô thị và du lịch như: đường cao tốc, Cảng Hàng không quốc tế Cát Bi và nhiều dự án đầu tư du lịch tầm cỡ. Bên cạnh những thế mạnh kể trên, thành phố còn tồn tại những hạn chế về các mặt như: Dịch vụ cảng (không hình thành được hệ thống tổ chức Logistics hiện đại và không giảm được chi phí Logistics trên mỗi đơn vị hàng hóa, hoạt động cảng còn thiếu tính kết nối giữa dịch vụ cảng với các loại giao thông khác và hệ thống các cảng cạn nội địa ở phía sau); việc xây dựng mở rộng cảng nước sâu Lạch Huyện cũng gặp nhiều khó khăn liên quan đến các nhà đầu tư, nguồn vốn…; hầu hết hoạt động vận tải biển do các công ty nước ngoài đảm nhận cũng là điểm yếu trong tham gia vận tải biển của Hải Phòng; ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thủy vốn là một trong những thế mạnh của Hải Phòng, nhưng hiện đang gặp không ít khó khăn khi muốn phục hồi lại vị thế và vai trò của mình, việc tổ chức lại ngành đóng tàu cũng như tái cấu trúc Tập đoàn Vinashine vẫn còn lúng túng đã khiến cho một lực lượng lớn nhân lực ngành đóng mới và sửa chữa tàu thủy ra đi mà chưa thấy có tín hiệu chính sách nào khắc phục. Đây cũng là điểm yếu cần khắc phục. Sở hữu nguồn tài nguyên du lịch dồi dào nhưng cho đến nay, lĩnh vực Du lịch & Dịch vụ lưu trú ăn uống mới tạo ra khoảng 2-3% GRDP của thành phố Hải Phòng. Nếu so với một số tỉnh/thành phố ven biển khác như Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu thì du lịch biển Hải Phòng có thể coi là một khâu yếu.

Với kết quả nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu đã phân tích, đánh giá khả năng trở thành trung tâm quốc tế về hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

Về đào tạo KH&CN biển: (1) Hải Phòng là địa phương tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng và trung cấp do vậy, có đủ các điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ đào tạo KH&CN biển như: Giảng đường, thư viện, ký túc xá, phòng Lab, mô hình, thiết bị… Tuy nhiên, hiện nay cơ sở vật chất của các đơn vị đào tạo được đầu tư nhưng chưa đồng bộ, đa số các hạng mục công trình đã được đưa vào khai thác sử dụng liên tục nhiều năm nên đã xuống cấp, chưa được đầu tư, sửa chữa, bảo dưỡng kịp thời. Chương trình giảng dạy tại các trường còn thụ động, nhiều trường cùng giảng dạy một chuyên ngành, không bắt kịp nhu cầu của doanh nghiệp. Trang thiết bị phục vụ hoạt động giảng dạy, thực hành, thí nghiệm và các hoạt động khác… vẫn còn thiếu tính đồng bộ và chưa đạt được đẳng cấp quốc tế dẫn tới thiếu sức hút đối với sinh viên quốc tế. (2)Hải Phòng có đội ngũ thực hiện công tác đào tạo có bề dày nghiên cứu, có nhiều các công bố trên các tập san quốc tế. Tuy nhiên, vẫn thiếu giáo sư đầu đàn, có sức ảnh hưởng và uy tín quốc tế, được quốc tế công nhận thông qua các giải thưởng lớn. (3)Hải Phòng có nhiều các trường đào tạo được các sinh viên quốc tế theo học. Có sinh viên nội địa mang tầm cỡ quốc tế và sinh viên quốc tế. Ngôn ngữ giảng dạy tiếng nước ngoài được giảng dạy tại một số trường. Tuy nhiên, hiện nay số sinh viên quốc tế tại các trường đào tạo của Hải Phòng vẫn còn hạn chế, chủ yếu đến từ các nước đang phát triển và khu vực Châu Á. Thiếu sức hút đối với sinh viên các nước phát triển và Châu Âu đến học tập.

Về nghiên cứu KH&CN biển: (1) Hải Phòng có hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động nghiên cứu KH&CN biển tại các trường đại học, viện nghiên cứu như: Phòng Lab, khu trưng bày các sản phẩm nghiên cứu KH&CN, trang thiết bị phục vụ hoạt động nghiên cứu theo lĩnh vực… Tuy nhiên, theo đánh giá hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa đạt trình độ quốc tế. Để trở thành trung tâm quốc tế về nghiên cứu khoa học công nghệ biển thì thành phố còn thiếu khu nghiên cứu ngoài trời hay công viên khoa học công nghệ biển, bảo tàng KH&CN biển – hàng hải là những nơi các nhà khoa học công nghệ biển tập trung giao lưu, nghiên cứu, học hỏi trao đổi những vấn đề khoa học liên quan đến biển; (2)Hải Phòng có những nhà nghiên cứu có bề dày kinh nghiệm nghiên cứu về chuyên ngành về biển. Tuy nhiên, để trở thành trung tâm quốc tế về nghiên cứu khoa học công nghệ biển thì Hải Phòng còn thiếu những nhà nghiên cứu mang tầm vóc quốc tế, có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu, được đồng nghiệp quốc tế cùng ngành công nhận thông qua các giải thưởng quốc tế. Thiếu những nhà nghiên cứu có kinh nghiệm lãnh đạo nhóm nghiên cứu quốc tế. (3) Thế mạnh trong hợp tác nghiên cứu với quốc tế theo các lĩnh vực chuyên ngành là một đặc điểm cần thiết của một trung tâm quốc tế về nghiên cứu KH&CN biển của Hải Phòng.

Về ứng dụng KH&CN biển: (1) Hải Phòng còn thiếu các trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ nơi tập trung các công nghệ trong nước và nước ngoài đã được khảo nghiệm, sẵn sàng chuyển giao vào thực tiễn sản xuất. Thiếu khu thực hành ứng dụng khoa học công nghệ để thử nghiệm, khảo nghiệm các công nghệ nước ngoài. Các phòng thí nghiệm, khu thử nghiệm hiện có chưa đạt tầm vóc quốc tế; (2) Chưa có những sản phẩm KH&CN biển mang tầm vóc quốc tế và được thị trường quốc tế chấp nhận sử dụng; (3) Hoạt động hợp tác nghiên cứu chuyển giao ứng dụng KH&CN với các nước trên thế giới theo các lĩnh vực chuyên ngành đã có nhưng chưa mạnh về khoa học – công nghệ biển.

Kết quả nghiên cứu thực trạng là cơ sở để nhóm nghiên cứu các nhiệm vụ và giải pháp giúp Hải Phòng có thể trở thành trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển giai đoạn từ nay đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045. Trong đó, chú trọng đến các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, bao gồm: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức vai trò Hải Phòng là trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước; phát triển hệ thống đô thị (theo mô hình TOD) bền vững và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong hoạt động KH&CN biển; phát triển các cơ sở đào tạo về KH&CN và kinh tế biển; phát triển các cơ sở nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KH&CN biển; phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển; thu hút nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển tại Hải Phòng; tăng cường mở rộng, hợp tác, hội nhập quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng KH&CN biển; xây dựng các chính sách đột phá cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN biển tại Hải Phòng.

Kết quả nghiên cứu của đề tài là cần thiết, nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; thể hiện sự khát vọng xây dựng Hải Phòng trở thành trung tâm quốc tế về đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ biển góp phần phát triển đất nước và thành phố trong giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.