Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 26408
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Nghiên cứu đề xuất một số mô hình xử lý các bãi rác tạm đóng cửa đến năm 2025 trên địa bàn thành phố Hải Phòng (23/09/2025)

Thành phố Hải Phòng là đô thị loại 1 cấp quốc gia. Đây là nơi hội tụ đầy đủ các lợi thể về đường biển, đường sắt, đường bộ và đường hàng không, giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong cả nước và các quốc gia trên thể giới, là một trong những trung tâm dịch vụ, công nghiệp của vùng và cả nước với hệ thống hạ tầng đô thị và công nghiệp đồng bộ, hiện đại. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế đem lại, vấn đề môi trường trên địa bàn thành phố đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời với xu thế phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam và thế giới; tình trạng xả chất thải rắn không đúng nơi quy định vẫn còn diễn ra tại các khu vực công cộng, đặc biệt là khu vực nông thôn, gây ô nhiễm môi trường, làm suy giảm chất lượng đất, chất lượng nước mặt, đặc biệt là chất lượng nguồn nước cấp cho sinh hoạt. Với mục tiêu đề xuất được một số mô hình xử lý các bãi rác tạm phải đóng cửa đến năm 2025 trên địa bàn thành phố Hải Phòng, từ đó có thể tái sử dụng mặt bằng, thu hồi tài nguyên và cải thiện môi trường tại các bãi rác tạm. Năm 2023, thành phố Hải Phòng đã phê duyệt nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ “Nghiên cứu đề xuất một số mô hình xử lý các bãi rác tạm đóng cửa đến năm 2025 trên địa bàn thành phố Hải Phòng”. Nhiệm vụ do Chi cục Bảo vệ môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì và Ths. Đỗ Thị Hương là chủ nhiệm.

 

Bãi rác xã Quyết Tiến, huyện Tiên Lãng trước khi cải tạo

Triển khai đề tài bên cạnh vấn đề nghiên cứu tổng quan, nhóm nghiên cứu đã đánh giá thưc trạng chung của các bãi rác tạm. Kết quả cho thấy, tính đến tháng 12/2023, tổng số bãi rác tạm phải đóng cửa đến năm 2025 của thành phố Hải Phòng là 72 bãi, nằm trên 39 xã của các huyện Kiến Thụy (23 bãi), Vĩnh Bảo (19 bãi), An Lão (22 bãi), Tiên Lãng (5 bãi) và Cát Hải (3 bãi). Tổng diện tích các bãi rác tạm là 168.914 m2. Các bãi rác tạm nhìn chung có diện tích và quy mô không lớn, chiều sâu từ 1,5 - 5m, trung bình là 2,2 m và có chiều cao từ 1,5 đến 4 m, trung bình là 1,7 m. Số bãi rác tạm lộ thiên tại 5 huyện của thành phố Hải Phòng là 49/72 bãi rác (chiếm 68,1%), còn lại 23/72 bãi có che phủ tạm bằng đất hoặc có lớp thực vật mặt bãi. Số bãi rác đã đóng ngừng tiếp nhận rác là 39/72 bãi (chiếm 54,2%). Do vậy, số bãi rác đang hoạt động là 33/72 bãi, chiếm tới 45,8%. Trong số các bãi rác tạm phải đóng cửa đến năm 2025 thì có 51/72 bãi rác (chiếm 70,8%) phù hợp với quy hoạch. Số còn lại không phù hợp với các quy hoạch hiện có tại địa phương. Hầu hết các bãi rác đều có đường giao thông thuận tiện. Một số bãi rác nằm gần ruộng lúa, ven đê, gần khu dân cư hoặc gần chùa. Hầu hết các bãi rác tạm đã lấp đầy, tuy nhiên hiện tại các bãi này vẫn đang tiếp nhận rác nên xảy ra hiện tượng quá tải và gây ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, nhiều bãi lộ thiên, số còn lại được che phủ tạm.

Dựa vào tiêu chí tuổi bãi rác và khoảng cách an toàn của bãi rác tạm, nhóm nghiên cứu đề xuất phân nhóm các bãi rác tạm của Hải Phòng thành 4nhóm: (1) mức độ ô nhiễm thấp, đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường; (2) mức độ ô nhiễm thấp, không đảm bảo khoảng cách an toàn mô trường; (3) mức độ ô nhiễm cao, đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường;(4) mức độ ô nhiễm cao, không đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường. Tương ứng với 4 nhóm là 4 mô hình xử lý các bãi rác này: Mô hình 1: Đóng bãi, định hướng tái sử dụng mặt bằng bãi rác, áp dụng cho các bãi rác tạm từ 10 năm trở lên và đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường. Đây là mô hình có mức độ ô nhiễm thấp, có thể kiểm soát được, diện tích bãi nhỏ (dưới 3.000 m2) với tổng số 23 bãi trên địa bàn của 5 huyện (Kiến Thụy 11 bãi, An Lão 5 bãi, Vĩnh Bảo 4 bãi, Cát Hải 2 bãi, Tiên Lãng 1 bãi); mô hình 2: Định hình lại bãi, đóng bãi áp dụng cho các bãi rác tạm từ 10 năm trở lên và không đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường. Mô hình này có mức độ ô nhiễm thấp, có thể kiểm soát được, tuy nhiên do có khoảng cách an toàn môi trường nhỏ hơn 1.000m sẽ là điểm cần quan tâm khi quản lý chất lượng môi trường đối với những bãi này. Kết quả khảo sát thống kê cho thấy ở nhóm bãi rác này có tổng số 26 bãi trên địa bàn của 5 huyện (Kiến Thụy 5 bãi, An Lão 8 bãi, Vĩnh Bảo 11 bãi, Cát Hải 1 bãi, Tiên Lãng 1 bãi); mô hình 3: Đóng bãi và theo dõi các yếu tố môi trường áp dụng cho các bãi rác tạm dưới 10 năm và đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường. Đây là mô hình có mức độ ô nhiễm cao, khó có thể kiểm soát được tuy đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường. Nhóm bãi rác này có tổng số 9 bãi trên địa bàn của 4 huyện (Kiến Thụy 4 bãi, An Lão 2 bãi, Vĩnh Bảo 2 bãi, Tiên Lãng 1 bãi); mô hình 4: Di dời rác thải hoặc xử lý tại chỗ, thu hồi vật chất từ rác thải áp dụng cho các bãi rác tạm dưới 10 năm và không đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường. Mô hình có mức độ ô nhiễm cao, rất khó có thể kiểm soát được. Ở nhóm bãi rác này có tổng số 14 bãi trên địa bàn của 4 huyện (Kiến Thụy 3 bãi, An Lão 7 bãi, Vĩnh Bảo 2 bãi, Tiên Lãng 2 bãi).

Để thực hiện thử nghiệm mô hình cải tạo bãi rác tạm, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn bãi rác tại thôn tại thôn Tam Cường, xã Quyết Tiến, huyện Tiên Lãng là bãi rác hiện đang có tác động lớn đến môi trường xung quanh, thể hiện ở việc một số chỉ tiêu của các mẫu nước mặt và nước ngầm khu vực bãi rác không đáp ứng các quy chuẩn hiện hành. Mức độ ô nhiễm cao nhất, không đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường, thuộc nhóm 4. Giải pháp đề xuất là cải tạo, khai thác lại tài nguyên rác sau khi tách cơ học rác thải. Sau 11 tuần thực hiện, toàn bộ bãi rác diện tích khoảng 3.000 m2 được cải tạo, phục hồi môi trường, có thể tái sử dụng bãi rác cho các mục đích khác. Tổng khối lượng rác được khai đào và phân loại là 7.965 tấn, vượt 225 tấn so với tính toán ban đầu. Trong đó, rác thải vô cơ và hữu cơ dễ khó phân huỷ (vải, đồ da, nilon, rác vô cơ khác) là 4.388 tấn (chiếm 55,1%), rác/mùn hữu cơ là 3.577 m3 (chiếm 44,9%). Nilon có thể tái chế thu hồi được là 1.716 tấn (chiếm 21,5%), rác có khả năng cháy thu hồi nhiệt (nilon vụn, vỏ nilon tráng bạc, vỏ bim...) là 1.501 tấn (chiếm 18,8%). Kết quả khái toán với khối lượng thực nghiệm thực tế cho thấy, chi phí thực nghiệm cải tạo và xử lý bãi rác tạm tại xã Quyết Tiến, huyện Tiên Lăng 1.764.289.835 đồng. Đơn giá cải tạo bãi rác là 221.505 đồng/tấn rác hay 185.400 đồng/m3 rác. Theo dõi kết quả thực hiện cải tạo phục hồi môi trường bãi rác tạm xã Quyết Tiến cho thấy: (1) trung bình 1tấn rác thải khai đào cần sử dụng tối thiểu 1kg chế phẩm vi sinh và kinh phí phục vụ cho vi sinh này được Công ty Cổ phần sản xuất và thương mại Suối Hai cung cấp đủ 7.710kg là vi sinh vật phân giải xenlulo > 106 CFU/gam. Bên cạnh đó, việc cải tạo bãi rác tạm xã Quyết Tiến, ngân sách nhà nước từ nguồn KHCN chi trả 25% số kinh phí, 75% kinh phí còn lại do doanh nghiệp hỗ trợ; (2) việc khai đào và xử lý 7.965 tấn rác tại bãi rác tạm để phục vụ thực nghiệm cải tạo và xử lý bãi rác tạm tại xã Quyết Tiến, huyện Tiên Lãng hết tổng số kinh phí 1.764.289.835 đồng, trong đó ngân sách nhà nước từ nguồn KHCN chi trả 808.000.000 đồng (khoảng 46%), chi phí còn lại do doanh nghiệp hỗ trợ, ngoài ra doanh nghiệp còn tự bỏ kinh phí lắp đặt các máy móc, trang thiết bị; (3) việc xử lý lượng rác thải thu hồi được từ khai đào bãi rác tạm cũng được các đơn vị doanh nghiệp sáng tạo trong phương pháp xử lý như bố trí hợp lý vị trí các ô ủ mùn hữu cơ, quy trình ủ cũng được các đơn vị quan tâm để tạo ra lượng mùn hợp lý phù hợp cho việc hoàn thổ, ngoài ra lượng rác thải thu hồi được có khả năng sinh nhiệt mà không có khả năng tái chế cũng được các doanh nghiệp áp dụng kinh tế tuần hoàn và phối hợp với các doanh nghiệp thứ cấp có phương án sử dụng những loại chất thải này thay thế nhiên liệu đốt phục vụ cho sản xuất xi măng.

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm là cơ sở để đề tài đưa một số giải pháp tái chế vật chất thu được và tái sử dụng mặt bằng sau khi xử lý bãi rác tạm. Một số rác vô cơ hoặc rác hữu cơ khó phân huỷ có thể tái chế làm vật liệu xây dựng, vật liệu đốt thu nhiệt, nilon có thể tái chế lại làm hạt nhựa. Mùn hữu cơ từ bãi chôn lấp có thể tái chế thành đất trồng cây, tuy nhiên cần phải kiểm tra đánh giá chất lượng và tính an toàn phù hợp với loại cây trồng của trước khi sử dụng. Sau khi hoàn thành quá trình xử lý và cải tạo, nhóm nghiên cứu đề xuất 04 phương án tái sử dụng mặt bằng bãi rác tạm, nhằm khai thác hiệu quả quỹ đất, đảm bảo môi trường bền vững và phục vụ lợi ích cộng đồng, bao gồm: Chuyển đổi thành đất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi); phát triển cây lâu năm và cây công nghiệp lấy gỗ; phát triển không gian xanh phục vụ cộng đồng; xây dựng trạm trung chuyển hoặc cơ sở xử lý rác.

Từ mô hình thử nghiệm bãi rác tạm tại thôn Tam Cường, xã Quyết Tiến, huyện Tiên Lãng cho thấy để triển khai nhân rộng đối với 04 mô hình mà Ban chủ nhiệm đề tài đã nghiên cứu đưa ra ở trên, có một số lưu ý cần quan tâm: (1) Để đảm bảo việc xử lý cải tạo phục hồi môi trường cho các bãi rác tạm ở cả 4 mô hình nêu trên cần thiết phải ưu tiên cho thời điểm là mùa khô để cải tạo, nhằm giảm thiểu phát sinh nước rỉ rác, giảm thiểu phát sinh mùi, giảm thiểu số nhân công lao động, giúp người lao động được làm việc trong môi trường tốt hơn, tiết kiệm được thời gian và tiền của doanh nghiệp và ngân sách nhà nước; (2) ở mô hình số 4 (trong trường hợp lựa chọn khai đào rác tận thu nguồn tài nguyên từ rác) thì cần đặc biệt lưu ý đến khâu lựa chọn loại, thời điểm sử dụng vi sinh, chế phẩm trước, trong và sau khi khai đào rác, cải tạo phục hồi môi trường; tập trung cao cho việc bố trí nhân công, máy móc thiết bị làm 3 ca trong ngày để rút ngắn nhất thời gian có thể…;(3) việc cải tạo bãi rác tạm bằng biện pháp khai đào tận thu nguồn tài nguyên từ rác phù hợp cho bãi rác có diện tích từ 2.500 m2 trở lên (lượng rác khai đào khoảng 7.000 tấn) có đường ra vào bãi rác rộng từ 4m với kết cấu bê tông bởi lý do: Có thể bố trí được dàn máy móc thiết bị doanh nghiệp có thể tạo nguồn thu, nguồn lợi nhuận từ việc khai đào, mặt bằng bãi rác sau cải tạo có thể tái sử dụng vào nhiêu mục đích của địa phương theo quy hoạch được duyệt.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.