Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 45280
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh nhược cơ và lupus ban đỏ hệ thống (06/10/2025)

Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) và Nhược cơ (MG) là 2 bệnh tự miễn phổ biến với tỉ lệ mắc dao động từ 3,2 đến 159/100.000 dân và 20/100.000 dân, gặp nhiều ở phụ nữ. Cơ chế bệnh sinh của SLE là rối loạn dung nạp miễn dịch làm cho các tế bào lympho T, lympho B tự hoạt hóa, sinh kháng thể, lưu hành và lắng đọng phức hợp miễn dịch trong các mô của cơ thể gây tình trạng viêm mạn tính đa cơ quan. Ghép tế bào gốc tự thân là một biện pháp điều trị thay thế cho các bệnh nhân bị bệnh tự miễn kháng trị, như xơ cứng bì hệ thống, đa xơ cứng, lupus ban đỏ hệ thống. Tại Việt Nam, ghép tế bào gốc tạo máu đã được ứng dụng điều trị cho bệnh của hệ tạo máu, ung thư…và đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, cho tới nay chưa có nghiên cứu nào về ghép tế bào gốc cho bệnh nhân tự miễn nói chung cũng như ghép tế bào gốc tạo máu tự thân cho bệnh nhân nhược cơ và lupus ban đỏ hệ thống nói riêng. Chính vì vậy, với mục đích: Xây dựng quy trình huy động, chiết tách, bảo quản tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh nhược cơ và lupus ban đỏ hệ thống; Xây dựng quy trình sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh nhược cơ và lupus ban đỏ hệ thống; Đánh giá hiệu quả sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh nhược cơ và lupus ban đỏ hệ thống. Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã tiến hành nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Quốc gia: “Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh nhược cơ và lupus ban đỏ hệ thống” do PGS.TS Mai Văn Viện làm chủ nhiệm.

Triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu tổng quan, đưa ra các khái niệm có liên quan về tế bào gốc tạo máu, ghép tế bào gốc tạo máu, ghép tế bào gốc tạo máu tự thân điều trị bệnh tự miễn. Qua đó, phân tích khái quát vấn đề ghép tế bào gốc tạo máu tự thân điều trị bệnh nhược cơ, bệnh lupus ban đỏ hệ thống hiện nay.

Từ kết quả nghiên cứu tổng quan,nhóm nghiên cứu đã khám sàng lọc 85 bệnh nhân (BN). Trong đó, 44 bệnh nhân nhược cơ và 41 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống, chọn ra 4 bệnh nhân nhược cơ và 4 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống phù hợp với các tiêu chuẩn được xây dựng để ứng dụng tế bào gốc trong điều trị. Qua phân tích, tìm hiểu, nhóm nghiên cứu lựa chọn phương pháp nghiên cứu với 4 nội dung chính như sau: (1)Xây dựng tiêu chuẩn lựa chọn và khám sàng lọc bệnh nhân nhược cơ và bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống; (2) Thu gom, chiết tách và bảo quản khối tế bào gốc (TBG) từ máu ngoại vi sau huy động bằng G-CSF; (3) Sử dụng khối TBG tạo máu tự thân điều trị cho 4 BN nhược cơ bằng đường tĩnh mạch; (4) Sử dụng khối TBG tạo máu tự thân điều trị cho 4 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống bằng đường tĩnh mạch.

Kết quả nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn lựa chọn và khám sàng lọc BN nhược cơ và BN lupus ban đỏ hệ thống đã lựa chọn được 8 bệnh nhân để ghép TBG trong đó, 4 bệnh nhân nhược cơ được chọn để ghép tế bào gốc (3 nữ, 1 nam). Độ tuổi trung bình tại thời điểm chẩn đoán và ghép lần lượt là 28,5 và 41,5 tuổi. Thời gian mắc bệnh trước khi ghép dao động từ 7 đến 15 năm. Thang điểm tổng hợp đánh giá nhược cơ (MGC) trung bình của bệnh nhân trước khi ghép tế bào gốc là 24. 4 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống được được lựa chọn ghép tế bào gốc nhỏ nhất là 13 tuổi, lớn nhất là 46 tuổi. Tỉ lệ nam:nữ là 1:1. Thời gian mắc bệnh trước khi ghép dao động từ 3 đến 12 năm. Tất cả bệnh nhân đều có tình trạng bệnh hoạt động mạnh tại thời điểm sàng lọc để ghép tế bào gốc, chiếm 100%. Kháng thể kháng nhân dương tính ở cả 4 bệnh nhân, chiếm 100%. Kháng thể kháng dsDNA dương tính ở 3 trong 4 bệnh nhân (chiếm 75%). Ba thuốc chính được chỉ định ở tất cả các bệnh nhân bao gồm Prednisolon với liều cao nhất, dao động từ 15 đến 50 mg; Hydroxylchloroquine 200 đến 400 mg mỗi ngày; Mycophenolate Mofetil từ 500 đến 2000 mg mỗi ngày. Ngoài ra 1 bệnh nhân được chỉ định thêm thuốc ức chế miễn dịch Cyclosporin liều 150mg/ngày. Thuốc hạ huyết áp được chỉ định ở tất cả các bệnh nhân. Hội chứng Cushing là tác dụng phụ hay gặp nhất (chiếm 100%). Các biến chứng của bệnh lupus ban đỏ hệ thống bao gồm viêm cầu thận và tăng huyết áp gặp ở 100% bệnh nhân. Một bệnh nhân có hội chứng thận hư, chiếm 25%.

Kết quả nội dung thu gom, chiết tách và bảo quản khối TBG từ máu ngoại vi sau huy động bằng G-CSF ở bệnh nhân nhược cơ cho thấy: Số lượng tế bào có nhân trong tủy là 49,21 ± 23,04 G/L. 100% bệnh nhân nghiên cứu có tủy đồ bình thường. Tỉ lệ huy động thành công trong nghiên cứu là 100% với số ngày huy động trung bình là 6,25 ngày và số ngày tách trung bình là 1,5 ngày. Số lượng glycoprotein CD34 máu ngoại vi ngày tách là 126,8 ± 63,92TB/µL. Thể tích trung bình của túi sản phẩm gạn tách được là 211,67± 53,64ml. Số lượng tế bào có nhân là 140,39 ± 50,80 G/L. Hồng cầu, huyết sắc tố, hematocrit có rất ít trong túi sản phẩm. Thể tích trung bình của khối TBG là 232,58± 66,72ml. Số lượng tế bào CD34+ trong túi sản phẩm là 1842,28 ± 1337,18 tế bào/µL. Tỉ lệ tế bào CD34+ sống là 99,86 ± 0,11%. Liều tế bào trung bình của mỗi túi là 8,72 ± 5,57x106 tế bào/kg. Thể tích trung bình của túi sản phẩm gạn tách được là 194,32± 44,85ml. Số lượng tế bào có nhân là 10,18 ± 4,82G/L. Chỉ còn 0,04% là lymphocyte. Không phát hiện thấy các thành phần khác trong khối tế bào. Số lượng tế bào CD34+ trong túi sản phẩm là 6002,34 ± 4282,16 tế bào/µL. Tỉ lệ tế bào CD34+ sống là 99,98 ± 0,10%. Tỉ lệ tinh khiết đến 97,11 ± 3,12%. Liều tế bào trung bình của mỗi túi là 9,43 ± 7,26x106 tế bào/kg.Quá trình thuần khiết đã loại bỏ gần như toàn bộ các tế bào không cần thiết như hồng cầu, tiểu cầu, các tế bào lympho B, T, NK. Hiệu suất thu hồi của toàn bộ quá trình là 59,72 ± 14,38%. 100% khối tế bào gốc đều âm tính với cấy khuẩn cấy nấm. Đối với bệnh nhân Lupus ban đỏ hệ thống nghiên cứu cho thấy: Số lượng tế bào có nhân trong tủy là 37,46 ± 21,17 G/L. 100% bệnh nhân nghiên cứu có tủy đồ bình thường.Tỉ lệ huy động thành công trong nghiên cứu là 100% với số ngày huy động trung bình là 6,5 ngày và số ngày tách trung bình là 2 ngày. Số lượng CD34 máu ngoại vi ngày tách là 48,14 ± 10,36 TB/µL. Thể tích trung bình của túi sản phẩm gạn tách được là 288,57± 90,26 ml. Số lượng tế bào có nhân là 102,84 ± 36,87 G/L. Hồng cầu, huyết sắc tố, hematocrit có rất ít trong túi sản phẩm. Thể tích trung bình của khối TBG trong nhóm là 267,78± 84,57ml. Số lượng tế bào có nhân là 111,71 ± 75,46G/L. Số lượng tế bào CD34+ trong túi sản phẩm là 1109,28 ± 582,01tế bào/µL. Tỉ lệ tế bào CD34+ sống là 99,03 ± 0,99%. Liều tế bào trung bình của mỗi túi là 5,80 ± 1,65 x106 tế bào/kg. Thể tích trung bình của túi sản phẩm gạn tách được là 193,17± 96,71ml. Không phát hiện thấy các thành phần khác trong khối tế bào. Số lượng tế bào CD34+ trong túi sản phẩm là 5632,47 ± 3124,64tế bào/µL. Tỉ lệ tế bào CD34+ sống là 99,98 ± 0,10%. Tỉ lệ tinh khiết đến 98,24 ± 4,64%. Liều tế bào trung bình của mỗi túi là 6,11 ± 3,59 x106 tế bào/kg. Quá trình thuần khiết đã loại bỏ gần như toàn bộ các tế bào không cần thiết như hồng cầu, tiểu cầu, các tế bào lympho B, T, NK. Hiệu suất thu hồi của toàn bộ quá trình là 57,81 ± 11,42%. 100% khối tế bào gốc đều âm tính với cấy khuẩn cấy nấm. Tất cả khối sản phẩm tế bào gốc cuối cùng đều đạt tiêu chuẩn ghép cho bệnh nhân.

Kết quả sử dụng khối TBG tạo máu tự thân điều trị cho 4 bệnh nhược cơ  bằng đường tĩnh mạch như sau: Liều tế bào gốc CD34+ ghép cho bệnh nhân dao động từ 4,7 đến 9,4 tế bào/kg cân nặng. Thời gian trung bình để bạch cầu trung tính phục hồi > 500 tế bào/µL và tiểu cầu > 50 G/L tương ứng là 8,5 và 11,5 ngày. Số ngày nằm viện dao động từ 24 đến 53 ngày. Tất cả bệnh nhân đều được sử dụng khối hồng cầu và khối tiểu cầu trong giai đoạn giảm tế bào máu. Thể tích hồng cầu và khối tiểu cầu trung bình được sử dụng tương ứng là 525 ml và 1125 ml. Tình trạng lâm sàng của bệnh nhân nhược cơ cải thiện rõ rệt theo thời gian, giảm rõ rệt so với trước ghép tế bào gốc. Điểm MGC giảm từ 24 điểm (trước ghép) còn 0,7 điểm ( sau khi ghép 6 tháng). Đặc điểm miễn dịch ( Số lượng tế bào lympho, tế bào lympho T, tế bào lympho B) giảm thấp nhất tại thời điểm 1 tuần sau ghép, phục hồi dần và đạt mức bình thường tại thời điểm 6 tháng sau ghép tế bào gốc. Các chỉ số huyết học thay đổi theo các thời điểm theo dõi, thấp nhất lúc 1 tuần sau ghép và phục hồi dần theo thời gian. Các chỉ số sinh hóa hầu như không có thay đổi theo các mốc theo dõi. Bệnh nhân có thời gian theo dõi ngắn nhất là 3 tháng, nhiều nhất là 22 tháng. Tất cả bệnh nhân ngừng Corticoid và các thuốc ức chế miễn dịch từ khi ra viện, vẫn dùng thuốc kháng Cholinesterase liều thấp tới 1 năm sau ghép. Sau 1 năm, bệnh nhân thứ 1 và thứ 2 đã ngừng hoàn toàn thuốc điều trị.

Kết quả sử dụng khối TBG tạo máu tự thân điều trị cho 4 bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống bằng đường tĩnh mạch cho thấy. Liều tế bào gốc CD34+ ghép cho bệnh nhân dao động từ 4,1 đến 7,9 tế bào/kg cân nặng. Thời gian trung bình để bạch cầu trung tính phục hồi > 500 tế bào/µL và tiểu cầu > 50 G/L tương ứng là 9 và 12,5 ngày. Số ngày nằm viện dao động từ 17 đến 24 ngày. Thể tích hồng cầu và khối tiểu cầu trung bình được sử dụng tương ứng là 700 ml và 1500 ml. Mức độ hoạt động bệnh lupus ban đỏ hệ thống giảm rõ rệt theo thời gian sau ghép. Điểm SLEDAI ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống giảm từ 16 điểm (trước ghép) còn 1,0 điểm (sau ghép 6 tháng). Protein niệu của các bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống giảm rõ rệt theo thời gian sau ghép. Tuy nhiên, tại thời điểm 3,5 tháng sau ghép, bệnh nhân lupus ban đỏ thứ 4 có Protein niệu tăng cao trở lại, từ giá trị 0,22 g/24h lúc 3 tháng tăng lên 3g/24h tại thời điểm 3,5 tháng. Sau ghép, nồng độ kháng thể kháng ds-DNA giảm, đặc biệt có 1 bệnh nhân có kháng thể kháng ds-DNA về mức âm tính (ds DNA <20 IU/mL) tại thời điểm 6 tháng. Chỉ số kháng thể kháng nhân (ANA) không thấy sự thay đổi giữa các thời điểm theo dõi. Tế bào lympho T và tế bào lympho B giảm thấp nhất tại thời điểm 1 tuần sau ghép, sau đó phục hồi dần theo thời gian. Các chỉ số huyết học thay đổi theo các thời điểm theo dõi, thấp nhất lúc 1 tuần sau ghép và phục hồi dần theo thời gian. Cho tới nay, bệnh nhân được theo dõi trong thời gian ngắn nhất là 3 tháng, dài nhất là 15 tháng. Tất cả các bệnh nhân đều được chỉ định dừng corticoid và thuốc ức chế miễn dịch kể từ khi ra viện, ngoại trừ bệnh nhân thứ nhất vẫn tiếp tục dùng Mycophenolate Mofetil 500mg/ngày cho tới 3 tháng sau ghép.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau khi ghép 100% bệnh nhân cả hai nhóm có cải thiện tình trạng bệnh rõ rệt theo thời gian, giảm và dừng thuốc ức chế miễn dịch. Phương pháp an toàn không tử vong, không tai biến, tỷ lệ nhiễm khuẩn là 12.5%. Tuy nghiên cứu có hạn chế cỡ mẫu nhỏ, thời gian theo dõi dài nhất là 15 tháng, chưa đủ để đánh giá những hiệu quả lâu dài, nhưng kết quả bước đầu này là nỗ lực của nhóm nghiên cứu khi lần đầu tiên ứng dụng phương pháp ghép tế bào gốc tạo máu tự thân điều trị bệnh nhân Lupus ban đỏ hệ thống ở Việt Nam./.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.