Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 20476
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá song trân châu tại Hải Phòng (30/01/2024)

Cá song trân châu (còn gọi là cá trân châu, mú trân châu, song lai) là giống cá biển được lai tạo giữa trứng cá song hổ (E. fucogustatus) và tinh cá song vua (E. lanceolatus).

Cá song vua (Epinephelus lanceolatus Bloch, 1790) hay còn gọi là song vang, các tỉnh phía Nam gọi là mú nghệ; tên tiếng anh: King grouper, Giant grouper. Cá song vua là loài cá rạn san hô khổng lồ, kích thước cá lớn nhất đã bắt được dài 2,7m khối lượng 600kg. Thịt cá song vua trắng, ngon và có mùi thơm đặc biệt nhất là cá ở khối lượng >15kg. Đây cũng là đối tượng tiêu thụ truyền thống ở Hồng Kông và Trung Quốc. Hiện nay do lượng thịt lớn và ngon, thị trường Mỹ có nhu cầu cá phi lê rất lớn từ cá song nói chung và song vua nói riêng. Tuy phân bố rộng ở nhiều vùng biển (nam Nhật Bản đến Australia, biển Đông Phi, Biển Đỏ, Biển Nam Trung Hoa....) nhưng do giá trị kinh tế cao, cá song vua bị khai thác quá mức. Năm 1990, cá song vua được đưa vào sách đỏ IUCN, mức độ VU.

Cá song hổ (mú cọp); tên tiếng Anh (Tiger grouper), tên khoa học Epinephelus fuscoguttatus (Forsskål, 1775), là một loài cá rạn san hô thuộc họ Serranidae, có giá trị kinh tế cao, chất lượng thịt ngon, có giá trị cao được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Tại thị trường trong nước, giá bán cá song hổ thương phẩm (cỡ 0,8 - 1,0kg/con) từ 400.000 - 450.000 đồng/kg, tại các thị trường như Hong Kong, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia...giá bán cá thương phẩm đạt từ 40,0 - 50,0 USD/kg.

Hiện nay, cá song trân châu là đối tượng cá biển chính được phát triển nuôi ở hầu hết các vùng nuôi ven biển. Tuy nhiên, việc phát triển tại Hải Phòng (và các địa phương khác) vẫn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu là do sản xuất (trứng thụ tinh, cá giống) trong nước phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung của một số trại giống (do người Trung Quốc làm chủ) hoặc dựa vào nguồn nhập ngoại. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến giá thành cao (có thời điểm đạt 65 triệu/kg trứng; 25.000 đồng/con giống 5cm), bên cạnh đó là những rủi ro bởi lệch mùa vụ nuôi thả, chất lượng con giống không đảm bảo. Sơ bộ đánh giá, nhu cầu giống cá song trân châu của ngư dân Hải Phòng khoảng 0,3-0,4 triệu con/năm (cả nước 7,0-8,0 triệu con/năm) mà chủ yếu phải phụ thuộc vào nước ngoài thì việc chủ động quy trình sản xuất để đáp ứng nhu cầu con giống cho ngư dân được đặt ra đã là cấp thiết với Hải Phòng, một trong những Trung tâm nghề cá lớn của cả nước. Đứng trước thực trạng trên Trung tâm Quốc gia Giống Hải sản miền Bắc đã triển khai đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá song trân châu tại Hải Phòng” do Hoàng Nhật Sơn làm chủ nhiệm.

Đề tài đã xây dựng và hoàn thiện được Quy trình sản xuất giống cá song trân châu phù hợp với điều kiện Hải Phòng và 02 Quy trình nuôi thương phẩm cá song trân châu kết quả đạt được như sau:

Đề tài đã xây dựng và hoàn thiện được Quy trình sản xuất giống cá song trân châu phù hợp với điều kiện Hải Phòng bao gồm các bước sau: Nuôi vỗ, chuyển đổi giới tính và sản xuất trứng thụ tinh; Gây nuôi thức ăn tươi sống; Ương nuôi ấu trùng thành cá hương, cá giống; Thu hoạch và vận chuyển cá hương cá giống. Các chỉ tiêu kỹ thuật đạt được: Tỷ lệ thụ tinh: 80,9-88,9%. Tỷ lệ trứng nở: 81,3-85,7%. Tỷ lệ sống từ cá bột lên cá hương: 5,01-5,4%; từ cá hương lên cá giống: 80,08-88,39%.

Quy trình nuôi thương phẩm cá song trân châu trong lồng bè phù hợp điều kiện Hải Phòng. Sau 11 tháng nuôi thử nghiệm đạt được 1 số chỉ tiêu kỹ thuật như sau: Tỷ lệ sống đạt 63%; khối lượng trung bình >1,0 kg; Hệ số thức ăn 3,73; Năng suất 603,5 kg/lồng. Về hiệu quả kinh tế: Để nuôi 1 kg cá song trân châu thương phẩm trong lồng bè có giá thành 100-120 ngàn đồng. Lợi nhuận có thể đạt 90-130 ngàn đồng/kg. 

Quy trình nuôi thương phẩm cá song trân châu trong ao đất phù hợp với điều kiện Hải Phòng. Sau 11 tháng nuôi, tỷ lệ sống của cá song trân châu đến giai đoạn cá thương phẩm đạt 67,2%, khối lượng trung bình >1,0 kg. FCR của cá song trân châu nuôi thương phẩm trong ao đất tại Hải Phòng dao động khoảng 4 kg cá mồi/cá thịt. Về hiệu quả kinh tế: Để nuôi 1 kg cá song trân châu thương phẩm trong ao cần chi phí khoảng 120-130 ngàn đồng. Với giá bán hiện tại khoảng 200-250 ngàn đồng/kg. Lợi nhuận 80-120 ngàn đồng/kg.

Kết quả của đề tài sẽ chủ động được công nghệ sản xuất giống cá song trân châu. Đây là loại cá được quan tâm phát triển nuôi vì là đối tượng có giá trị kinh tế cao. Phát triển nghề nuôi cá song trân châu không những phục vụ chiến lược phát triển kinh tế biển mà còn là mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn, đồng thời tạo việc làm cho nhiều lao động, tăng việc làm và thu nhập từng bước nâng cao đời sống nhân dân vùng ven biển.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài tại Trung tâm Thông tin, Thống kê khoa học và công nghệ Hải Phòng./.