Chuyên mục
Đang trực tuyến : | 12512 |
Tổng truy cập : | 57,998 |
Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN
Nghiên cứu xây dựng và thử nghiệm đo lường bộ chỉ tiêu đo lường kinh tế số tại Hải Phòng (19/08/2025)
Kinh tế số (KTS) là một khái niệm bao hàm tất cả các hoạt động kinh tế dựa trên công nghệ số và internet. Đây là một hệ sinh thái kết nối các ngành công nghiệp, doanh nghiệp, chính phủ và người tiêu dùng thông qua việc áp dụng các công nghệ số để tối ưu hóa quy trình sản xuất, phân phối, và tiêu dùng. Kinh tế số không chỉ là một phần của nền kinh tế hiện đại mà còn đang dần trở thành nền tảng cốt lõi cho sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới.
Thành phố Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế lớn của Việt Nam với ba trụ cột phát triển kinh tế gồm công nghiệp công nghệ cao, cảng biển-logistics, du lịch-thương mại. Trong những năm gần đây, Hải Phòng đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Theo số liệu của Cục Thống kê Hải Phòng, năm 2022, tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố (GRDP) tăng 12,32% so với cùng kỳ năm trước, đứng thứ 8 cả nước, thứ 2 vùng Đồng bằng sông Hồng. Mục tiêu của Hải Phòng là tới năm 2025 kinh tế số chiếm 25% GRDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 15%; năng suất lao động hàng năm tăng bình quân 15%. Tới năm 2030, kinh tế số chiếm khoảng 35% GRDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 25%; năng suất lao động hàng năm tăng bình quân 16%. Đây đều là các mục tiêu cao hơn mức trung bình chỉ tiêu mục tiêu của cả nước. Tuy vậy cho đến nay, Hải Phòng vẫn chưa có một hệ thống chỉ tiêu kinh tế số đã được dùng đo lường theo quý và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội thực tiễn tại Hải Phòng. Đồng thời, chưa có bộ chỉ tiêu nào giúp đo lường KTS từng ngành nói chung và KTS ngành vận tải-logistics nói riêng. Vì những lý do trên, năm 2025, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã chủ trì thực hiện đề tài “Nghiên cứu, thử nghiệm bộ chỉ tiêu đo lường kinh tế số tại Hải Phòng” do TS. Đinh Chí Hiếu làm chủ nhiệm. Với các mục tiêu cụ thể, bao gồm: Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ tiêu kinh tế số cho Thành phố Hải Phòng; nghiên cứu xây dựng bộ chỉ tiêu kinh tế số ngành logistic cho Thành phố Hải Phòng; thử nghiệm đo lường bộ chỉ tiêu kinh tế số cho thành phố Hải Phòng và ngành logistic Thành phố Hải Phòng; thiết kế, xây dựng bộ CSDL và công cụ đo lường bộ chỉ tiêu kinh tế số cho Thành phố Hải Phòng và ngành logistic Thành phố Hải Phòng.
Triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu tổng quan về kinh tế số và đo lường kinh tế số trên thế giới và tại Việt Nam làm rõ được khái niệm, bản chất, những đặc trưng của kinh tế số cũng như các cách thức mà các nước trên thế giới cũng như Việt Nam đang đo lường KTS. Nghiên cứu cho thấy, về thành phần của kinh tế số đưa ra trong Chiến lược phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 gồm 3 phạm vi: Kinh tế số công nghệ thông tin - viễn thông; kinh tế số nền tảng và kinh tế số ngành, lĩnh vực. Về cấu trúc, kinh tế số sẽ được hiểu trên hai góc độ là kinh tế số ICT bao gồm công nghiệp công nghệ thông tin và dịch vụ viễn thông và Kinh tế số ngành, lĩnh vực thực hiện ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số hoặc thực hiện trên các nền tảng số và các hệ thống thông tin kết nối cung - cầu thông qua mạng Internet. Hai khái niệm này cũng tương đồng với hai khái niệm quốc tế là Kinh tế số lõi và Kinh tế số hóa. Nghiên cứu cũng đưa ra thực trạng phát triển kinh tế số Việt Nam: (1)Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) đã có bước chuyển mình đáng kể, các doanh nghiệp đã trang bị cơ bản hạ tầng công nghệ thông tin để phục vụ cho quá trình chuyển đổi số trong doanh nghiệp tỷ lệ các hộ gia đình có máy tính ở Việt Nam đã tăng gấp đôi, đối với doanh nghiệp đến năm 2021, 100% các doanh nghiệp có trang bị máy tính để bàn và máy tính xách tay, nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng các phần mềm vào trong quá trình quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mật độ thuê bao di động tăng cao, các mạng di động hiện nay của Việt Nam phần lớn đều tự xây dựng cơ sở hạ tầng cho mình. Doanh thu ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam tăng trưởng đều đặn trong thời gian qua. Năm 2020, tổng doanh thu của ngành đạt 124,678 triệu đô la. Tốc độ tăng doanh thu trung bình hàng năm từ năm 2011 tới nay của ngành đạt trung bình 80%/năm, đặc biệt trong giai đoạn 2011-2020, doanh thu viễn thông tăng trưởng rất tốt. Điều này cũng phản ánh được xu thế của xã hội và nền kinh tế khi có sự dịch chuyển dần từ lĩnh vực ICT sang các lĩnh vực ngoài ICT. (2) Kinh tế số ngành, lĩnh vực như: Thương mại điện tử, Công nghệ tài chính (Fintech), Nông nghiệp thông minh, Logistic thông minh, Du lịch thông minh đều có bước tăng trưởng đáng kể qua các năm và kết hợp với sự hỗ trợ từ chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế số phát triển bền vững. Sự hội tụ của các yếu tố này không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số mà còn góp phần tái định hình nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và số hóa sâu rộng.
Nghiên cứu đã làm rõ các đặc trưng kinh tế, KTS của thành phố cũng như thực trạng chuyển đổi số ngành logistics thành phố Hải Phòng. Kết quả cho thấy, Hải Phòng là thành phố duy nhất trong khu vực phía Bắc có đầy đủ 5 phương thức vận tải gồm đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, đường thủy nội địa cùng các điều kiện địa lý tự nhiên và hệ thống cảng biển, thuận lợi cho sự phát triển ngành dịch vụ logistics và trở thành trung tâm logistics của khu vực phía Bắc. Thành phố quy hoạch tổng diện tích đất cho logistics đến năm 2025 là khoảng 2.061 ha, đến năm 2030 là 2.156 ha và định hướng giai đoạn 2025 - 2030 sẽ quy hoạch 9 trung tâm logistics. Với tiềm năng, lợi thế về dịch vụ cảng, dịch vụ vận tải-logistics Hải Phòng ngày càng có cơ hội phát triển khi các dự án quan trọng như: Đường ô tô Tân Vũ - Lạch Huyện, đường cao tốc Hải Phòng - Hạ Long, cao tốc ven biển Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh, đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng đã và đang được đầu tư xây dựng, nâng cấp đồng bộ và đi vào hoạt động. Như vậy, việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông đã giúp dịch vụ vận tải-logistics Hải Phòng có nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Trong giai đoạn tiếp theo, Hải Phòng sẽ tập trung xây dựng các khu công nghiệp(KCN), khu chế xuất mới thành lập theo hình mẫu KCN dựa trên nền tảng logistics. Điều này giúp tạo nguồn hàng dồi dào cho các doanh nghiệp dịch vụ logistics trên địa bàn; đồng thời tăng hiệu quả của chuỗi cung ứng hàng hóa cho cả khu vực Đông Bắc, cũng như đảm nhận vai trò cổng logistics cho nguồn hàng xuất nhập khẩu bằng đường biển của các địa phương phía Bắc dự báo sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Năm 2023, lần đầu tiên Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics đã công bố bản báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh logistics cấp tỉnh (LCI), trong đó, Hải Phòng được xếp thứ 2 chỉ sau TP Hồ Chí Minh, điều này cho thấy Hải Phòng vẫn luôn là một trong những trung tâm phát triển trong lĩnh vực logistics. Với lợi thế xuất phát điểm sớm, thuận lợi trong phát triển cảng biển, xung quanh là các trung tâm sản xuất công nghiệp lớn và có các kết nối hạ tầng vượt trội trong khu vực, Hải Phòng có định hướng phát triển dịch vụ logistics theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn tiến tới xuất khẩu dịch vụ logistics ra nước ngoài. Để phát triển dịch vụ logistics trong bối cảnh xuất nhập khẩu của Việt Nam đang tăng mạnh, UBND TP. Hải Phòng đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động vận tải và logistics như Quyết định số 549/QĐ-UBND về phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống dịch vụ logistics thành phố Hải Phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Kế hoạch số 238/KH-UBND ngày 21/10/2021 về thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 02/8/2021 của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ hoạt động cảng biển, dịch vụ logistics đến năm 2025, 2020 và tầm nhìn đến năm 2045 và Quyết định số 221/QĐ TTg. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã và đang chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển dịch vụ đến năm 2030…Nghiên cứu xác định được vai trò của chuyển đổi số trong vận tải, logistics có thể mang lại nhiều ích lợi cho nền kinh tế nói chung và Hải Phòng nói riêng. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đưa ra thực trạng chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics tại Hải Phòng những mặt đạt được và những hạn chế, tồn tại. Qua đó, rút ra bài học kinh nghiêm quan trọng cho thành phố Hải Phòng.
Từ kết quả đánh giá thực trạng, nhóm nghiên cứu xây dựng bộ chỉ tiêu kinh tế số đầy đủ cho thành phố Hải Phòng với cấu trúc 05 phần như sau: Cấu thành đầu tiên của bộ chỉ số được gọi là Nhận thức số và thể chế số bao gồm 21 chỉ tiêu với tổng điểm cơ sở là 200 điểm; cấu thành thứ hai của bộ chỉ số được gọi là Hạ tầng số và an ninh mạng với 52 chỉ tiêu; cấu thành thứ ba của bộ chỉ số được gọi là Nhân lực số với 15 chỉ tiêu được tiếp thu chủ yếu từ bộ chỉ số DTI của Bộ Thông tin và truyền thông; cấu thành thứ tư của bộ chỉ số được gọi là Hoạt động kinh tế số với 22 chỉ tiêu là cấu thành cốt lõi và quan trọng nhất của bộ chỉ số này; Cấu thành cuối cùng trong bộ chỉ tiêu là thống kê doanh thu các ngành ICT theo Thông tư số 13/2021/TT-BKHĐT của Bộ kế hoạch và đầu tư. Chỉ tiêu này không được chuẩn hóa tương tự như các cấu thành bên trên mà chỉ đơn giản phản ánh kết quả của các ngành ICT thông qua doanh thu. Các ngành ICT được chia thành 6 nhóm phản ánh những ngành kinh doanh ICT chính tại thành phố Hải Phòng. Số liệu của cấu thành này sẽ được cung cấp từ Cục Thuế hoặc Cục Thống kê thành phố.
Sau khi phân tích kỹ lưỡng nhóm nghiên cứu đã tiến hành xây dựng bộ chỉ tiêu kinh tế số rút gọn với tính khả thi cao, không chỉ ở khía cạnh lý thuyết mà còn ở khả năng triển khai trong thực tế. Tính khả thi của bộ chỉ số rút gọn thể hiện ở nhiều phương diện, bao gồm khả năng đo lường được các khía cạnh cốt lõi của kinh tế số và phát triển kinh tế số, tính đơn giản, dễ hiểu, dễ thu thập số liệu, tính bền vững trong việc duy trì và cập nhật, cũng như khả năng ứng dụng kết quả đánh giá vào quá trình ra quyết định. Qua đó, bộ chỉ tiêu rút gọn cho triển khai ngay với 33 chỉ tiêu được chia thành 4 trụ cột chính và 1 trụ cột đặc trưng KTS thành phố Hải Phòng. Cụ thể như sau: Cấu thành Nhận thức số và thể chế số được rút gọn còn lại 10 chỉ số và giữa nguyên điểm cơ sở tương tự như bộ đầy đủ. Đây là những chỉ số trọng tâm, thể hiện nền tảng cần có để xây dựng nhận thức và thể chế của hoạt động kinh tế số; Cấu thành Hạ tầng số và an ninh mạng rút gọn với 8 chỉ tiêu; Cấu thành Nhân lực số rút gọn với 4 chỉ tiêu; Cấu thành Hoạt động kinh tế số rút gọn với 11 chỉ tiêu; Theo các chỉ số trong Thông tư 13/2021/TT-BKHĐT do Bộ kế hoạch và đầu tư ban hành cấu thành doanh thu các ngành ICT được chia thành 6 nhóm chính. Kết quả đánh giá bộ chỉ tiêu kinh tế số cho Hải Phòng theo quý từ quý 1/2022 tới quý 2/2024 là cơ sở để nhóm tác giả tiến hành xây dựng bộ chỉ tiêu KTS cho ngành logistic tại Hải Phòng. Về cấu trúc tổng thể, cấu thành đầu tiên của bộ chỉ số được gọi là Nhận thức số và thể chế số với 10 chỉ số; Cấu thành thứ hai của bộ chỉ số được gọi là Hạ tầng số và an ninh mạng với 08 chỉ tiêu. Đây cũng là nhóm chỉ số thứ 02 trong bộ chỉ số DTI và DESI; Cấu thành thứ ba của bộ chỉ số được gọi là Nhân lực số với 04 chỉ tiêu; Cấu thành thứ tư của bộ chỉ số được gọi là Hoạt động kinh tế số ngành Logistics với 06 chỉ tiêu; Cấu thành cuối cùng được gọi là Thực trạng Kinh tế số ngành Logistics. Đây là cấu thành được kế thừa từ bộ chỉ tiêu đo lường kinh tế số theo Thông tư 13/2021/TT BKHĐT do Bộ kế hoạch và đầu tư ban hành và đề xuất riêng của Lab Kinh tế số tại Học viện. 03 chỉ tiêu này đơn giản chỉ phản ánh thực trạng doanh thu, kết quả hoạt động của ngành Logistics và đóng góp vào Kinh tế số của riêng ngành này. Kết quả triển khai đo lường thử nghiệm và đánh giá bộ chỉ tiêu Kinh tế số cho ngành Logistics thành phố Hải Phòng giai đoạn 2023 – 2024 khá ấn tượng với mức điểm trung bình trên 80/100 điểm đánh giá. Có tới 03 chỉ số đạt giá trị tối đa 20/20 điểm. Đây là 03 chỉ số quan trọng trong bộ chỉ tiêu đánh giá Kinh tế số ngành Logistics vì số điểm cơ sở cao, bao gồm: Tỷ trọng doanh nghiệp Logistics trên địa bàn thành phố; Tỷ trọng doanh thu doanh nghiệp Logistics trên tổng doanh thu; Tỷ trọng doanh nghiệp Logistics có hoạt động đổi mới công nghệ. Cả ba chỉ số đều thể hiện rõ tiềm năng phát triển và thế mạnh của ngành Logistics. Bên cạnh đó, định hướng ứng dụng khoa học công nghệ rõ ràng trong sản xuất kinh doanh của ngành Logistics tại thành phố Hải Phòng…Nhìn chung, tỷ trọng KTS ngành Logistics có sự biến động đáng kể trong năm 2023, với mức tăng trưởng mạnh mẽ trong quý III. Sang năm 2024, chỉ số có xu hướng giảm và ổn định ở mức thấp hơn so với quý III năm 2023. Giá trị này so với trung bình cả nước vẫn thấp hơn 1 chút. Vì thế giá trị điểm đánh giá chỉ tiêu tỷ trọng kinh tế số (KTS) ngành Logistics trong tổng giá trị gia tăng (VA) rơi vào khoảng 17,5/20 điểm. Kỳ vọng trong tương lai thành phố sẽ đẩy mạnh hơn hoạt động kinh tế số cho ngành thế mạnh Logistics để cải thiện chỉ tiêu này.
Qua phân tích, đánh giá bộ chỉ tiêu KTS cho ngành logistic nhóm đề tài nghiên cứu giải pháp phần mềm hỗ trợ xử lý dữ liệu, xây dựng module trích xuất dữ liệu, lưu trữ dữ liệu, đo lường hiển thị và thống kê chỉ số, xây dựng module phân tích và tỉnh toán chỉ tiêu KTS dựa trên dữ liệu trích xuât, thử nghiệm xây dựng cơ sở dữ liệu và đánh giá. Sau khi, nghiên cứu, thiết kế và xây dựng hệ thống phần mềm quản lý chạy trên nền web nhóm đề tài tiến hành đề xuất đề xuất 8 giải pháp để triển khai bộ chỉ tiêu đo lường KTS thành phố và KTS ngành logistics thành phố Hải Phòng gồm: Giải pháp triển khai công cụ trên nền tảng đám mây, giải pháp triển khai đa nền tảng, giải pháp triển khai đa thiết bị, giải pháp triển khai đa trình duyệt, giải pháp bảo mật và quản lý dữ liệu, giải pháp tích hợp và mở rộng hệ thống cũng như giải pháp hỗ trợ người dùng. Các giải pháp được đề xuất không chỉ đáp ứng yêu cầu hiện tại mà còn tạo tiền đề để hệ thống phát triển và thích ứng với những thay đổi trong tương lai. Tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới sẽ giúp quá trình chuyển đổi số diễn ra hiệu quả, góp phần nâng cao năng suất và hỗ trợ sự phát triển bền vững của nền kinh tế số.
Bộ chỉ tiêu KTS thành phố và Bộ chỉ tiêu KTS ngành logistics thành phố Hải Phòng cùng công cụ phần mềm đo lường các bộ chỉ tiêu này sẽ giúp UBND thành phố Hải Phòng, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở KH&CN, các sở, ban, ngành liên quan hiểu rõ hơn về tình hình KTS, đưa ra các quyết định chính xác thúc đẩy KTS của Hải Phòng cũng như các địa phương khác trên cả nước.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.
- Nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất nanochitosan từ phụ phẩm tôm tại Hải Phòng (08/09/2025)
- Nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển xã hội số trên địa bàn thành phố Hải Phòng... (28/08/2025)
- Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng... (26/08/2025)
- Xây dựng mô hình sản xuất giống, nuôi trồng và chế biến nấm Đầu khỉ (Hericium erinaceus)... (22/08/2025)
- Hỗ trợ xây dựng, áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa của thành... (21/08/2025)
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp phòng tránh tác hại do... (21/08/2025)