Chuyên mục
Đang trực tuyến : | 50690 |
Tổng truy cập : | 57,998 |
Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN
Thúc đẩy sử dụng nền tảng công nghệ số nhằm tăng cường quyền năng kinh tế cho phụ nữ Việt Nam thời đại mới (06/10/2025)
Ngày nay, đứng trước cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư, vấn đề tăng quyền năng kinh tế, bất bình đẳng giới trong tiếp cận và sử dụng số, cũng như những ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ tới mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội của phụ nữ nói chung và phụ nữ làm kinh tế, phụ nữ yếu thế nói riêng vẫn luôn là đề tài nóng hổi. Điều này được thể hiện rõ trong các văn bản nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc các nhiệm kỳ gần đây và Chiến lược phát triển Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2035. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về các nhân tố hành vi sử dụng nền tảng số có ảnh hưởng tới quyền năng kinh tế cho phụ nữ trong thời đại mới. Vì vậy, với mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về sử dụng các nền tảng số của phụ nữ tại Việt Nam nhằm đề xuất các chính sách, chương trình hành động có liên quan cho các cơ quan quản lý Nhà nước và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, qua đó thúc đẩy ứng dụng số nhằm tăng quyền năng kinh tế cho phụ nữ. Năm 2022, Học viện Phụ nữ Việt Nam chủ trì thực hiện đề tài “Thúc đẩy sử dụng nền tảng công nghệ số nhằm tăng cường quyền năng kinh tế cho phụ nữ Việt Nam thời đại mới” do TS. Nguyễn Hùng Cường và PGS. TS. Nguyễn Vũ Hùng làm chủ nhiệm.
Triển khai đề tài, Ban chủ nhiệm nhiệm vụ đã tiến hành nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn sử dụng nền tảng số tại Việt Nam và trên thế giới, phân tích các khái niệm về nền kinh tế số, nền kinh tế nền tảng. Trong đó, các khái niệm về nền tảng và nền tảng số theo các học giả khác nhau trên thế giới và theo văn bản Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2022 về việc “Phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Thủ tướng Chính phủ, rút ra một số đặc điểm chung về khái niệm nền tảng số. Nhóm nghiên cứu đã trình bày các hoạt động và đối tượng tham gia vào nền tảng số, phân loại nền tảng số theo 2 cách tiếp cận: có 4 loại dựa trên lợi ích mà nền tảng số mang lại và 4 loại theo đối tượng sở hữu nền tảng. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích tổng hợp về thực trạng sử dụng nền tảng số trên Thế giới và tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy mục tiêu của Chính phủ Việt Nam và những đóng góp ngày một lớn của nền tảng số, cũng như tình hình phát triển và sử dụng nền tảng số gia tăng rất nhanh qua các năm. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp các khái niệm khác nhau về “tăng quyền năng kinh tế cho phụ nữ”. Theo đó, quyền năng kinh tế được hiểu là có quyền tiếp cận và kiểm soát các phương tiện để kiểm sống dài hạn và bền vững, và nhận được những lợi ích từ việc tiếp cận và kiểm soát này. Quyền năng kinh tế của phụ nữ vì vậy thường được hiểu từ góc độ cá nhân là khả năng phụ nữ có thể tiếp cận, sở hữu, và kiểm soát các nguồn lực. Trên thực tế, các học giả cũng chỉ ra rằng, trong khi các nghiên cứu khác nhau về quyền năng kinh tế của phụ nữ có những cách đo lường khác nhau dựa trên các phương pháp thu thập số liệu khác nhau, quyền năng kinh tế của phụ nữ ở cấp độ cá nhân thường được hiểu bao gồm cả khía cạnh về thái độ và hành vi. Tiếp theo, nhóm nghiên cứu chỉ ra các giá trị theo phong trào thi đua “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới” do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động đã được xác định rõ trong chiến lược phát triển Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2035 và Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, gồm 4 giá trị cốt lõi: “Có Tri thức, Có Đạo đức, Có Sức khỏe và Có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội và đất nước”. Phong trào được hướng dẫn theo định hướng phát triển linh hoạt tùy theo đặc thù của Hội phụ nữ các cấp, Hội phụ nữ trong các ban, ngành, cơ quan đoàn thể, cơ quan chuyên trách. Tuy nhiên, theo nhóm nghiên cứu, những giá trị nói trên cần được sáng tạo linh hoạt trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn lịch sử và định hướng phát triển của địa phương; từ đó mới có thể tạo ra những phong trào có tính thực tế, tránh hô hào, khẩu hiệu.
Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu, phân tích các vấn đề về khung lý thuyết và các nghiên cứu đề xuất mô hình; mô hình nghiên cứu đề xuất và các giả thuyết nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Trong đó, khung lý thuyết về sử dụng nền tảng công số dựa trên kết quả nghiên cứu của Golzard (2020) và Cessaroni và cộng sự (2017). Nghiên cứu của Golzard (2020) chỉ ra rằng, các nghiên cứu trước đây về sử dụng nền tảng số chỉ quan tâm tới yếu tố “sự tham gia” nói chung của phụ nữ trên Internet và các nền tảng số. Vì vậy, các nghiên cứu về mối liên hệ giữa sử dụng nền tảng số và quyền năng kinh tế của phụ nữ cần đi sâu tìm hiểu mục đích sử dụng các nền tảng số nói chung. Cessaroni và cộng sự (2017) chỉ ra rằng “phụ nữ tham gia kinh doanh nói riêng thường có 2 nhóm mục đích chính khi tham gia mạng xã hội là: kinh doanh và các mục tiêu cá nhân khác”. Đây là lý do vì sao nghiên cứu này phát triển các thang đo về mục tiêu sử dụng Zalo và Facebook với 2 nhóm mục đích trên. Khung lý thuyết được trình bày về quyền năng kinh tế cho phụ nữ tập trung đo lường ở cấp độ thái độ và hành vi trên cơ sở nghiên cứu của Brody và cộng sự (2015): “quyền năng kinh tế của phụ nữ có thể được hiểu là khả năng người phụ nữ có thể tiếp cận, sở hữu và kiểm soát các nguồn lực kinh tế”. Từ đó, nhóm tác giả đã đưa ra các câu hỏi đo lường nhận định của phụ nữ trong 2 nhóm thái độ và hành vi với 2 mục đích cho kinh doanh và cho mục đích cá nhân. Từ kết quả nghiên cứu trên, nhóm nghiên cứu đã đề xuất mô hình nghiên cứu và 03 giả thuyết, gồm: Phụ nữ thường xuyên tham gia mạng xã hội cho các mục đích kinh doanh sẽ có quyền năng kinh tế cao hơn về thái độ; phụ nữ thường xuyên tham gia mạng xã hội cho các mục đích cá nhân sẽ có quyền năng kinh tế cao hơn về thái độ và phụ nữ quyền năng kinh tế cao hơn về thái độ sẽ có quyền năng kinh tế cao hơn về hành vi. Về phương pháp nghiên cứu trong nội dung này, nhóm nghiên cứu đã trình bày các bước về Phát triển các công cụ khảo sát sử dụng thang đo Likert 5; Quy trình chọn mẫu và thu hồi, làm sạch dữ liệu, thu lại được 239 phiếu. Từ đó, nhóm nghiên cứu đã kiểm tra độ tin cậy của thang đo và khẳng định thang đo có độ tin cậy cao, đảm bảo để phục vụ cho việc phân tích số liệu, chạy mô hình hồi qui, đo lường mức độ tác động của các nhân tố tới quyền năng kinh tế của phụ nữ.
Mô tả kết quả mẫu khảo sát cho thấy, các mạng xã hội sử dụng phổ biến nhất vẫn là Zalo và Facebook đúng như mục tiêu nghiên cứu khoanh vùng để khảo sát. Mục đích sử dụng nền tảng số Zalo và Facebook ở mức độ thường xuyên cao cho cả 2 mục đích kinh doanh và mục đích cá nhân. Facebook được sử dụng thường xuyên hơn so với Zalo cho các mục đích bán hàng và tiếp thị. Nghiên cứu còn cho thấy phụ nữ trong mẫu khảo sát dường như có thái độ khá tích cực về quyền năng kinh tế của mình với từ 72%-93% số người được hỏi khẳng định mình có vị thế kinh tế. Thái độ này đặc biệt cao với các khả năng kiểm soát tài chính gia đình và việc làm (từ 89%-93% khẳng định vị thế này) và thấp hơn ở khả năng kinh doanh (từ 72%-77% khẳng định khả năng này). Trong khi đó, hành vi quyền năng kinh tế của phụ nữ chỉ sự kiện đã xảy ra thường xuyên hay không dường như ở mức thấp hơn (từ 65%-90% người trả lời khẳng định có hành vi xảy ra). Về thứ tự, tương tự như với thái độ, các hành vi liên quan tới quyền năng vị thế kinh tế trong gia đình và việc làm thường hay xảy ra nhất (từ 69%-90% khẳng định). Trong khi đó, các hành vi liên quan đến khả năng kinh doanh ít xảy ra hơn (65%-68% đồng ý). Như vậy, các kết quả phân tích với nhóm phụ nữ trong mẫu khảo sát cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng các mạng xã hội trong việc nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ cả ở mức độ thái độ và hành vi. Trên thực tế, phụ nữ Việt Nam dường như đã đều có sự tiếp cận với các nền tảng số ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, tần suất sử dụng các nền tảng số không phải yếu tố quan trọng dẫn tới tăng quyền năng kinh tế.
Kết quả nghiên cứu thực trạng là cơ sở để nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị và giải pháp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhằm thúc đẩy sử dụng nền tảng số nhằm tăng quyền năng kinh tế cho phụ nữ Việt Nam thời đại mới.
Về một số kiến nghị: (1)Trung ương Hội LHPN Việt Nam cần có những tham mưu chính sách với Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp có liên quan về vấn đề tăng quyền năng kinh tế cho phụ nữ trong các lĩnh vực khác nhau, cả về kinh tế và xã hội; thông qua các hoạt động khác nhau, trong đó có hoạt động thúc đẩy phụ nữ sử dụng các nền tảng số. (2)Dựa trên các tiêu chí về sử dụng nền tảng số và quyền năng kinh tế của phụ nữ trong nghiên cứu này, Trung ương Hội LHPN Việt Nam cần xây dựng bộ chỉ số khảo sát, đánh giá việc sử dụng các nền tảng số và tăng quyền năng kinh tế của phụ nữ ở qui mô rộng, phân loại theo các địa phương để theo dõi và đo lường; từ đó giúp định hướng thúc đẩy sử dụng các nền tảng số phổ biến hiện nay và trong tương lai. (3)Trung ương Hội LHPN Việt Nam và Hội LHPN các cấp, cùng Hội LHPN cùng cấp cần tiếp tục khảo sát định kỳ hàng năm ở qui mô rộng và tại các địa phương cụ thể để có kết quả phân tích thực tế, từ đó đề ra các định hướng, cũng như giúp đo lường trong dài hạn và ngắn hạn cho các chính sách giúp tăng cường quyền năng kinh tế của phụ nữ gắn với phong trào thi đua “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới”.
Về giải pháp chiến lược: (1)Nhanh chóng xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt Đề án chuyển đổi số của Hội LHPN Việt Nam, trong đó có các nội dung thuộc giải pháp 2, 3, 4 và 5 dưới đây; (2)Xây dựng nền tảng số “Tăng quyền năng kinh tế cho phụ nữ” (Women’s Empowerment App – viết tắt là WEA), trong đó, ngoài các chức năng kết nối giữa phụ nữ và các tổ chức, cá nhân có khả năng hỗ trợ giải quyết các vấn đề của phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội, cần tích hợp hệ thống đo lường, đánh giá mục đích sử dụng với quyền năng kinh tế của phụ nữ; (3) Phát triển các chương trình đào tạo, phổ biến kiến thức về quyền năng kinh tế, các chương trình trao đổi qua hội nhóm về quyền và khả năng tiếp cận kinh tế của phụ nữ…nhằm nâng cao nhận thức, thái độ của phụ nữ với quyền năng kinh tế; (4)Lồng ghép vào các chương trình nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ các nội dung về khai thác, tận dụng mạng xã hội nói riêng và các nền tảng số nói chung để phục vụ các mục đích kinh doanh. Lồng ghép nội dung kiến thức về kinh doanh trên mạng, khởi nghiệp với các nền tảng số, tiếp cận tài nguyên số… vào các chương trình tập huấn, các hoạt động tuyên truyền; (5) Hình thành các cộng đồng/nhóm phụ nữ trên các nền tảng số, đặc biệt là mạng xã hội để phụ nữ tự do chia sẻ tri thức kinh doanh và quyền của phụ nữ. Các chương trình này nên được đầu tư có định hướng (thay vì tự phát), qua đó có thể giúp lan truyền và thúc đẩy quyền năng kinh tế về thái độ tốt hơn.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.
- Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh nhược cơ và lupus... (06/10/2025)
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống tự động phát hiện, cảnh báo và ngăn chặn tấn công mạng... (06/10/2025)
- Hoàn thiện quy trình công nghệ chăn nuôi 02 dòng lợn nái TH12, TH21, 01 dòng lợn... (06/10/2025)
- Nghiên cứu tuyển chọn chủng vi tảo Spirulina platensis phù hợp với điều kiện khí... (06/10/2025)
- Nghiên cứu ứng dụng giải pháp kết hợp mô hình thủy văn VIC và công nghệ vệ tinh trọng... (06/04/2025)