Chuyên mục
| Đang trực tuyến : | 37544 |
| Tổng truy cập : | 57,998 |
Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất thương phẩm khoai tây Bliss theo hướng liên kết tiêu thụ sản phẩm tại tỉnh Hải Dương (21/10/2025)
Cây khoai tây là cây thực phẩm quan trọng, có giá trị kinh tế cao, mang lại thu nhập gấp 2-3 lần so với cây lúa. Đặc biệt, khoai tây đang từng bước trở thành cây hàng hóa có đầu ra ổn định nhờ các doanh nghiệp đặt hàng và bao tiêu. Tỉnh Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng) – địa phương có diện tích đất nông nghiệp lớn, khí hậu thuận lợi và truyền thống sản xuất vụ đông – là vụ có lợi thế đặc biệt trong phát triển cây khoai tây. Tuy vậy, những năm gần đây diện tích khoai tây giảm rõ rệt mà nguyên nhân chính do giống khoai tây chủ lực Atlantic đã bộc lộ nhiều nhược điểm: tỷ lệ nứt củ cao, dễ nhiễm bệnh sương mai, chất lượng và năng suất không ổn định, giống nhanh thoái hóa sau vài vụ, chi phí đầu tư giống mới hàng năm cao. Hệ quả là kinh tế thấp, rủi ro cao, nông dân e ngại mở rộng diện tích dù có chính sách bao tiêu. Trong bối cảnh đó, giống khoai tây Bliss được Viện Sinh Nông nghiệp nhập nội, khảo nghiệm và đã được Bộ NN&PTNT công nhận lưu hành chính thức theo quyết định số 461/CLT-TP ngày 14 tháng 05 năm 2021 đáp ứng đầy đủ yêu cầu: sinh trưởng khỏe, chống chịu tốt với bệnh sương mai, tỷ lệ củ thương phẩm đạt trên 89,8%, tỷ lệ củ nứt thấp…Đặc biệt, giống Bliss phù hợp cho chế biến chip và đã được doanh nghiệp sản xuất chấp nhận.
Vì vậy, Viện Sinh học Nông nghiệp thực hiện nhiệm vụ "Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất thương phẩm khoai tây Bliss theo hướng liên kết tiêu thụ sản phẩm tại tỉnh Hải Dương" là một yêu cầu cấp thiết nhằm khôi phục, mở rộng diện tích trồng khoai tây chế biến, nâng cao hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nông dân, phát triển chuỗi giá trị nông sản bền vững gắn với công nghiệp chế biến, tận dụng tối đa lợi thế về đất đai, khí hậu, nguồn nhân lực tại địa phương. Nhiệm vụ do ThS. Vũ Tiến Dũng làm chủ nhiệm.

Triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu tổng quan, tầm quan trọng của cây khoai tây, tình hình sản xuất, tiêu thụ và nghiên cứu khoai tây trên thế giới, tại Việt Nam và tỉnh Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng). Kết quả cho thấy, tại Việt Nam giai đoạn trước năm 2010, diện tích trồng khoai tây ổn định và dao động trong khoảng 30.000 – 35.000 ha. Tuy nhiên, diện tích trồng khoai ngày càng giảm mạnh. Từ năm 2010, diện tích trồng khoai tây 29.663 ha giảm còn 19.889 ha vào năm 2023. Mặt khác, sản xuất khoai tây ở nước ta đã có những bước tiến triển đáng kể về năng suất và chất lượng củ, năng suất trung bình đạt 11,9 tấn/ha (2010) tăng lên 16,74 tấn/ha vào năm 2023. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến diện tích trồng giảm và năng suất chưa cao là do thiếu nguồn củ giống chất lượng cao. Loại giống phổ biến hiện tại có chất lượng thấp, thường nhiễm virut, già sinh lý và độ thuần thấp. Do đó, cần thiết phải đẩy mạnh các hoạt động chọn tạo giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng kháng bệnh. Đồng thời xây dựng hệ thống sản xuất, kiểm định, xác nhận, bảo quản và cung ứng giống đồng bộ, gắn liền với các điều kiện canh tác tiên tiến. Mặt khác, tại Việt Nam khoai tây chế biến được đưa vào sản xuất từ gần 20 năm trước, song đến nay quy mô sản xuất vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng. Sản lượng này chỉ đáp ứng được khoảng 30-40% nhu cầu của các nhà máy chế biến như PepsiCo Việt Nam và Orion Food Vina.
Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng) là tỉnh trọng điểm trong sản xuất cây vụ đông của vùng đồng bằng sông Hồng, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho canh tác khoai tây. Tuy vậy, theo số liệu thống kê, từ năm 2015 đến năm 2020, diện tích trồng khoai tây có xu hướng giảm, từ 1.248ha xuống 889ha, năng suất trung bình 14 tấn/ha. Giai đoạn năm 2020-2023, diện tích khoai tây dao động mạnh, cao nhất năm 2021(921 ha), thấp nhất năm 2020 (644 ha), năm 2023 tăng trở lại 746 ha. Năng suất bình quân 14,46 tấn/ha thấp hơn năng suất bình quân cả nước khoảng 16,7 tấn/ha (2023). Giống khoai tây được trồng chủ yếu tại Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng) trong những năm vừa qua gồm: Sinora, Aladin, Erika…Trong đó, giống sản xuất khoai tây chế biến người dân chủ yếu sửa dụng giống Atlatic. Tuy nhiên, giống này có nhược điểm lớn là tỷ lệ lứt củ cao, mẫn cảm với bệnh sương mai dẫn đến năng suất và sản lượng thấp. Trước bối cảnh nhu cầu khoai tây chế biến trong nước ngày càng tăng, cùng với sự tham gia của các doanh nghiệp lớn, tiềm năng đất đai, lao động và kinh nghiệm sản xuất sẵn có của tỉnh, việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng, khảo nghiệm và tuyển chọn giống khoai tây chế biến mới tại Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng) là hết sức cần thiết. Giống Bliss là con lai giữa giống Atlantic (mẹ) và giống Lindsay (bố) do cục các ngành công nghiệp bang Victoria thuộc Úc chọn tạo và đưa ra sản xuất đại trà từ năm 1999. Hiện nay giống Bliss được phép trồng rộng rãi trên toàn cầu mà không cần giấy phép từ nhà chọn tạo giống. Viện sinh học nông nghiệp - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã nhập nội giống Bliss là giống chuyên cho chế biến về khảo nghiệm tác giả, khảo nghiệm cơ bản, khảo nghiệm sản xuất ở các vùng sinh thái khác nhau. Giống có đặc điểm nông sinh học: Thời gian sinh trưởng 90 – 100 ngày, thời gian ngủ nghỉ dài 120-140 ngày, củ tròn – oval, vỏ củ sáng… Năng suất trung bình 20 tấn/ha, hàm lượng chất khô 21,5%, hàm lượng đường khử thấp, phù hợp cho chế biến Chip, khả năng chống chịu tốt với mốc sương, chịu nóng, chậm thoái hóa, mẫn cảm nhẹ với ghẻ thường.
Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn các điểm thực hiện mô hình của đề tài tại các huyện Thanh Miện, Gia Lộc và Nam Sách (thành phố Hải Phòng) qua hai vụ năm 2023 và năm 2024với tổng quy mô 25,0 ha. Trong đó, vụ đông – xuân 10/2023-02/2024 thực hiện 10 ha; vụ đông – xuân 10/2024-02/2025 thực hiện 15 ha. Các hộ nông dân tham gia mô hình đã tuân thủ đúng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp của quy trình kỹ thuật của như: ủ củ giống, cắt củ, phân bón và chế độ chăm sóc thích hợp, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh kịp thời... đã tạo cho cây khoai tây Bliss sinh trưởng khỏe, phát triển đồng đều, ít sâu bệnh. Năng suất của mô hình bình quân đạt 20,1 tấn/ha, cao và tăng hơn 19,5 % so với giống so với giống Atlantic là giống cũ được trồng phục vụ cho chế biến (năng suất chỉ đạt 16,8 tấn/ha). Tỷ lệ củ không đạt tiêu chuẩn nhà máy cũng thấp hơn giống Bliss là 1,9 tấn/ha trong khi giống Atlantic có tỷ lệ củ loại cao 3,1 tấn/ha. Tổng sản lượng khoai tây thương phẩm thu được từ hai mô hình trong hai năm là 502,52 tấn/25 ha mô hình trong đó sản lượng khoai tây thương phẩm đạt tiêu chuẩn cho chế biến được thu mua đạt 456,190 tấn chiếm 90,8% tổng sản lượng đạt 100% yêu cầu đặt ra của đề tài. Đánh giá hiệu quả kinh tế cho thấy, về lợi nhuận, canh tác giống khoai tây Bliss đạt lợi nhuận 71,6 triệu đồng/ha, tăng 108,6% so với giống Atlantic (34,3 triệu đồng/ha).
Nghiên cứu đã hoàn thiện quy trình canh tác giống khoai tây với việc xác định năng suất là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá chính xác mật độ nào phù hợp. Năng suất giống khoai tây Bliss thu được ở mật độ trồng khác nhau tại các điểm thí nghiệm Thanh Miện, Gia Lộc và Nam Sách trung bình đạt 18,2-22,18 tấn/ha (năm 2023) và 18,9 - 22,79 tấn/ha (năm 2024). Kết quả theo dõi 2 vụ cho thấy, ảnh hưởng của yếu tố mật độ đến nặng suất giống khoai tây Bliss rất rõ rệt, cụ thể khi tăng mật độ thì năng suất tăng và ngược lại. Năng suất thấp nhất tại mật độ 4 khóm/m2 ở tất cả các điểm nghiên cứu, dao động từ 17,8 - 18,9 tấn/ha, mật độ trồng 5 khóm/m2 (đạt 21,8 - 22,8 tấn/ha) và mật độ 6 khóm/m2 (đạt 21,7 -22,6 tấn/ha). Như vậy, với mật độ trồng 5 khóm/m2 vừa tiết kiệm chi phí về giống vừa đảm bảo cho năng suất cao nhất. Nghiên cứu cũng cho thấy, hiệu quả kinh tế của giống khoai tây Bliss trên các mức phân bón khác nhau đạt mức lãi cũng khác nhau. Năm 2023 dao động từ 94 - 118 triệu đồng/ha, năm 2024 dao động từ 92 - 122 triệu đồng/ha. Với mức đầu từ phân bón thấp NPK 120:120:120 cho năng suất thấp vì vậy hiệu quả kinh tế ở mức phân bón này đều thấp ở cả hai năm thực hiện. Mức phân bón cao NPK = 180:180:180 cho năng suất cao, tuy nhiên chi phí đầu tư cũng tăng theo nên hiệu quả kinh tế ở mức phân bón này chưa tối ưu. Với mức phân bón NPK = 150:150:150 cho năng suất cao và chi phí đầu vào phù hợp vì vậy cho hiệu quả cao nhất ở cả 2 năm thực hiện, lãi thuần thu được xấp xỉ đạt 118 triệu đồng/ha và 122 triệu đồng/ha trong năm 2023, năm 2024. Như vậy, để đảm bảo mức đầu tư ban đầu thấp mà vẫn đạt được năng suất và thu nhập cao, nhóm nghiên cứu khuyến cáo nên sử dụng mức phân bón NPK = 150:150:150 sẽ hợp lý và đạt được hiệu quả tối ưu nhất. Bên cạnh đó, đề tài cũng tổ chức được 4 lớp tập huấn cho 200 lượt, nông dân và cán bộ kỹ thuật, 2 hội nghị đầu bờ với hơn 100 đại biểu tham dự. Những hoạt động này góp phần nâng cao nhận thức, phổ biến quy trình sản xuất và khuyến khích nhân rộng mô hình.
Kết quả của mô hình sẽ tạo ra tiền đề quan trọng để nhân rộng trên toàn tỉnh và các vùng lân cận, đóng góp vào chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cho ngành nông nghiệp địa phương.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.
- Xây dựng mô hình sản xuất lúa Séng cù thương phẩm theo hướng hữu cơ trên địa bàn... (20/10/2025)
- Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp thúc đẩy khởi nghiệp hợp... (17/10/2025)
- Nghiên cứu bảo tồn bãi giống định cư một số loài hải sản kinh tế, quý... (15/10/2025)
- Nghiên cứu đánh giá tiềm năng và khả năng sinh trưởng loài hải miên tại Hải Phòng (13/10/2025)
- Nghiên cứu thử nghiệm chế phẩm chứa Anthraquinone từ cốt khí củ (Polygonum cuspidatum)... (10/10/2025)
