Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 15698
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Vai trò, giá trị của tôn giáo trong phát triển kinh tế ở Việt Nam (20/02/2025)

Kinh tế và tôn giáo là hai lĩnh vực xã hội tưởng chừng như khác biệt, nhưng thực chất nó có mối quan hệ với nhau, có ảnh hưởng và tác động qua lại với nhau, cùng nhau phát triển. Tôn giáo thực sự là một nhân tố và có ảnh hưởng đối với kinh tế, đối với ứng xử kinh tế tôn giáo là một trong những nguyên nhân làm biến chuyển kinh tế của xã hội. Tuy nhiên, không phải tôn giáo nào cũng đều có khả năng kích thích sự tăng trưởng kinh tế, bởi nó còn phụ thuộc vào việc chủ thể tôn giáo và Nhà nước có khả năng khuyến khích những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của tôn giáo và kinh tế.

Ảnh minh họa.

Nhiều năm trở lại đây, đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của tôn giáo trong phát triển kinh tế, tuy nhiên, các nghiên cứu còn tản mạn và nhỏ lẻ, chưa có nghiên cứu hay tập hợp biên soạn nào chuyên sâu về những đóng góp của tôn giáo trong phát triển kinh tế ở Việt Nam. Với những lí do trên, Viện Nghiên cứu Tôn giáo đã triển khai nhiệm vụ cấp bộ Vai trò, giá trị của tôn giáo trong phát triển kinh tế ở Việt Namdo TS. Nguyễn Thị Quế Hương làm chủ nhiệm thuộc nhiệm vụ 2 Xây dựng, lựa chọn chủ đề, biên soạn tài liệu phục vụ hoạt động thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo của Đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo trong năm 2023 làm tài liệu tuyên truyền cho dự án hỗ trợ thông tin tuyên truyền về tôn giáo của Nhà nước. Nội dung của nhiệm vụ sẽ là nguồn tài liệu phục vụ hoạt động thông tin, tuyên truyền về vai trò, giá trị của tôn giáo trong phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu đã phân tích quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển kinh tế hiện nay thể hiện trong Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) của Đảng: “Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội”. Là một thành tố của văn hóa, tôn giáo tất yếu cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của kinh tế. Tuy nhiên, tùy từng tôn giáo có những đóng góp về mặt kinh tế khác nhau, tùy từng quốc gia mà có những ứng xử trong việc phát huy những nguồn lực tôn giáo theo chủ trương, đường lối của riêng mình.

Từ những quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước cùng với chủ trương của các tôn giáo đã đưa các giá trị của tôn giáo vào hoạt động kinh tế, mang lại đời sống ấm no cho cả đời sống đạo và đời của tín đồ thông qua những biểu hiện như: Bát chính đạo không chỉ dừng lại ở vai trò là con đường hướng dẫn tu tập dẫn đến giải thoát mà còn cung cấp nhiều tư liệu liên quan đến quá trình hoạt động liên quan đến kinh tế của Phật giáo: Chính kiến (nhận thức đúng đắn), chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn), chính ngữ (lời nói đúng đắn), chính nghiệp (hành động, làm việc đúng đắn), chính mạng (kiếm sống bằng nghề chính đáng), chính tinh tiến (nỗ lực phấn đấu để tiến lên), chính niệm (tâm niệm đạo lý chân chính), chính định (tập trung tư tưởng đúng đắn); Kính Chúa, Yêu người; bình đẳng, bác ái, sống có trách nhiệm với xã hội… Những giá trị này có thể coi chính là những giáo lý vốn hình thành lý thuyết và mô hình đạo đức kinh tế của các tôn giáo đã trực tiếp chi phối đời sống các tín đồ, nhất là trong các hoạt động liên quan đến kinh doanh, kinh tế hiện diện trong đời sống xã hội. Các mô hình trong xây dựng nông thôn mới, những cách làm tiêu biểu của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã và đang góp sức không nhỏ trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay; hình thành nếp sống lành mạnh, hướng tới bảo vệ môi trường sinh thái, trong đó có đời sống của thiên nhiên và đời sống của con người. Cộng đồng tín đồ tôn giáo thực sự đã lan tỏa những thông điệp, những hành động bảo vệ môi trường, hình thành thói quen trong sinh hoạt hàng ngày của đồng bào tôn giáo cũng như không tôn giáo ở khắp các địa phương.

Sự ảnh hưởng của tôn giáo đến kinh tế còn thể hiện ở một khía cạnh nữa đó là những chuẩn mực đạo đức tôn giáo đã điều chỉnh hành vi làm việc kinh tế, làm giàu theo những chuẩn mực đạo đức xã hội, họ sẽ vì niềm tin tôn giáo mà có trách nhiệm với bản thân trong hoạt động kinh tế của họ, họ sẽ làm giàu “chính đáng” với tâm thiện. Do đó, trong xã hội, người dân sẽ tin tưởng hơn khi có những hợp tác làm ăn với người có đạo với một niềm tin - người theo đạo sẽ không làm dối, lừa lọc, gian xảo. Điều này cũng được tính là một yếu tố trong phát triển kinh tế, bởi kinh có được chữ tín trong kinh doanh nghĩa là thành công một nửa. Như vậy, phát triển kinh tế không xa rời đạo đức xã hội, trách nhiệm xã hội đó chính là đóng góp của tôn giáo trong phát triển đất nước.

Việt Nam hiện có 41 tổ chức được công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, thuộc 16 tôn giáo với số lượng tín đồ chiếm 27% dân số cả nước, hơn 58 nghìn chức sắc, hơn 148 nghìn chức việc, hơn 2 nghìn cơ sở tôn giáo. Đây là lực lượng đông đảo không chỉ tham gia các hoạt động tôn giáo mà còn tham gia tích cực vào các hoạt động an sinh xã hội. Cùng với quá trình truyền giáo, các tôn giáo đã tham gia và hưởng ứng mạnh mẽ chủ trương xã hội hóa y tế, giáo dục của Đảng, Nhà nước bằng việc phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, hiệu quả trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và từ thiện nhân đạo ở nhiều địa phương.

Bên cạnh những đóng góp về nguồn nhân lực cho xã hội, các tổ chức tôn giáo còn đóng góp không nhỏ trong phát triển kinh tế được thông qua các hoạt động như: hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động trong hỗ trợ cộng đồng tôn giáo; hoạt động trong xây dựng nông thôn mới, đô thị thông minh… từ những thành quả, nhiệm vụ đưa ra một số mô hình trong phát triển kinh tế, nhằm nhân rộng mô hình điển hình, hỗ trợ cộng đồng tôn giáo và không tôn giáo phát triển kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế ổn định hàng năm của đất nước có sự chung tay, đóng góp từ nguồn nhân lực và nguồn vốn của tín đồ các tôn giáo. Nguồn nhân lực, nguồn vốn của tôn giáo khi kết hợp với niềm tin tôn giáo không chỉ tạo ra của cải vật chất, mà còn thôi thúc các tổ chức và cá nhân tôn giáo nâng cao trách nhiệm trong thực hiện các hoạt động an sinh xã hội một cách hiện quả và bền vững.

Với chức năng liên kết xã hội, lấy việc làm điều phước thiện, từ bi, bác ái là phương châm tu hành, trong nhiều năm nay các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã trở thành tác nhân quan trọng góp phần giảm thiểu đói nghèo, nâng cấp các cơ sở hạ tầng tại các địa phương nơi có cơ sở tôn giáo đóng trụ sở. Mặt khác, chính nhờ những giá trị nhân văn hàm chứa trong giáo lý và chức năng tạo ra những liên kết xã hội mà các tổ chức của tổ chức tôn giáo đã góp phần thúc đẩy các quan hệ xã hội theo hướng tích cực tạo ra những cơ hội phát triển kinh tế cá nhân, gia đình, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội và giảm khoảng cách giàu nghèo tiến tới mục đích thực hiện công bằng xã hội. Với ưu thế là hành động vì đức tin tôn giáo, cống hiến cho cộng đồng là thể hiện tinh thần bác ái, từ bi, là hành động thiết thực của cuộc sống tu hành nên các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều thể hiện một tinh thần nhập thế sôi nổi. Phương diện này đã đóng góp cho xã hội những nguồn lực lớn lao về con người, vật chất, tiền bạc. Tất cả những đóng góp này không chỉ đúng thời điểm, trúng đối tượng mà còn giảm tải rất lớn gánh nặng an sinh xã hội cho chính quyền các cấp, các địa phương.

Để phát huy vai trò, giá trị của tôn giáo trong phát triển kinh tế hiện nay cần giải quyết những vấn đề đặt ra từ phía Nhà nước, tổ chức tôn giáo và từ phía cộng đồng. Nhà nước cần ban hành những cơ chế chính sách cho các tôn giáo tham gia vào phát triển kinh tế; huy động vốn hay nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của tôn giáo đối với cán bộ quản lý nhà nước về tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo nên quy hoạch, kế hoạch, định hướng rõ ràng đối với các hoạt động kinh tế trong sản xuất, kinh doanh. Phát triển kinh tế nhằm mục đích phát triển đạo. Cộng đồng cần nâng cao nhận thức đạo đức trong sản xuất kinh doanh, tính liên kết trong và ngoài cộng đồng tôn giáo. Từ đó, có những khuyến nghị cho công tác tuyên truyền một số nguyên tắc cần tuân thủ khi thông tin về vai trò, giá trị của tôn giáo trong phát triển kinh tế Việt Nam.

 

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu tại Trung tâm Thông tin,Thống kê Khoa học và Công nghệ./.