Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 37557
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Xây dựng mô hình sản xuất lúa Séng cù thương phẩm theo hướng hữu cơ trên địa bàn tỉnh Hải Dương (20/10/2025)

Lúa Séng Cù thuộc nhóm lúa thuần thơm của Trung Quốc được du nhập tỉnh Lào Cai bằng con đường tự trao đổi của nhân dân. Giống lúa này thường gọi là Séng Cù, tên địa phương Trung Quốc là Sừ Ly Séng, tên khoa học là Đồn Điền 502. Giống lúa Séng Cù được trồng chủ yếu ở các tỉnh như Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, thuộc vùng núi phía Bắc… Gạo séng cù được coi như hạt ngọc của núi rừng mà thiên nhiên ban tặng cho người dân Tây Bắc, là đặc sản thượng hạng và cũng là niềm tự hào của người dân các tỉnh vùng đất Tây Bắc, được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng. Với mục tiêu xây dựng thành công mô hình sản xuất lúa Séng cù thương phẩm theo hướng hữu cơ trên địa bàn tỉnh Hải Dương với quy mô 400 ha, năng suất đạt trung bình 5,0-5,5 tấn/ha; hoàn thiện được quy trình kỹ thuật sản xuất lúa Séng cù thương phẩm theo hướng hữu cơ phù hợp với điều kiện của tỉnh Hải Dương. Năm 2023, thành phố Hải Phòng đã phê duyệt nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ “Xây dựng mô hình sản xuất lúa Séng cù thương phẩm theo hướng hữu cơ trên địa bàn tỉnh Hải Dương”. Nhiệm vụ doViện Cây lương thực và Cây thực phẩm, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam chủ trì thực hiện, ThS. Nguyễn Phi Long làm chủ nhiệm.

 

 

Triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu tiến hành đánh giá tổng quan vấn đề nghiên cứu trong và ngoài nước, tình hình sản xuất lúa và định hướng sản xuất lúa theo hướng hữu cơ tại Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng). Kết quả cho thấy, lúa gạo đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển sinh kinh tế - xã hội của Việt Nam. Sản xuất lúa gạo là sinh kế của hàng triệu nông dân nhỏ lẻ. Những tiến bộ kỹ thuật trong nghiên cứu giống, phân bón, kỹ thuật canh tác đã góp phần không nhỏ làm gia tăng năng suất lúa hàng năm. Nhưng hậu quả của việc thâm canh tăng năng suất, lạm dụng hóa chất trong nông nghiệp đã lộ rõ nhiều bất cập như: đất đai bạc màu, sâu bệnh càng tiến hóa để thích ứng và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Vì vậy, thời gian gần đây cả thế giới đều hướng đến nền nông nghiệp hữu cơ, trong đó có Việt Nam. Xu hướng này được nhà nước rất chú trọng và khuyến khích nhằm nâng cao giá trị sản xuất lúa, vừa đảm bảo sản xuất bền vững. Tại Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng), cơ cấu giống lúa thích ứng với quy trình canh tác theo hướng hữu cơ không nhiều, chỉ tập chung chủ yếu vào một số ít giống lúa chất lượng tốt. Giống cho giá trị kinh tế cao, dễ tiêu thụ chưa có. Năng suất giống lúa sản xuất theo hướng hữu cơ chưa đáp ứng được kỳ vọng của người dân dẫn đến người dân giao động trong sản xuất. Và thực tế sản xuất nông nghiệp hữu cơ gặp rất nhiều khó khăn như: sản xuất nông nghiệp hữu cơ mới dừng lại ở dạng mô hình, quy mô nhỏ lẻ và đang gặp khó khăn để chuyển đổi sang quy mô hàng hóa. Tỷ lệ diện tích đất sản xuất lúa hữu cơ trên tổng diện tích đất canh tác rất thấp. Ngoài phần lớn nông dân thiếu thông tin về quy trình sản xuất, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nên gặp nhiều vấn đề trong thực hành sản xuất. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp sạch, hữu cơ khó nhân rộng do vốn đầu tư hạ tầng sản xuất ban đầu khá lớn. Quy trình sản xuất lúa hữu cơ, theo hướng hữu cơ cơ bản bằng biện pháp thủ công hoặc thuốc sinh học, mất nhiều công lao động, nên giá thành sản phẩm thường cao, dẫn đến thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn … Với định hướng sản xuất lúa chất lượng theo hướng hữu cơ tỉnh Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng) cần bổ sung thêm giống lúa đặc sản ngắn ngày có chất lượng tốt, có nhu cầu tiêu thụ cao và thích ứng với đồng đất địa phương để đem lại hiệu quả cho nông dân vùng trồng lúa là yêu cầu bức thiết cho sản xuất hiện nay. Kết quả nghiên cứu tổng quan là cơ sở để nhóm nghiên cứu lựa chọn sản xuất lúa Séng Cù thương phẩm theo hướng hữu cơ tại tỉnh Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng).

Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát tại 10 điểm tại 4 huyện, thành phố, thị xã trên địa bàn tỉnh Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng), lựa chọn được 5 xã, phường có đủ khả năng đáp ứng các tiêu chí chọn điểm về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi, điều kiện kinh tế xã hội, kỹ thuật, tập quán canh tác của vùng dự kiến xây dựng mô hình đều đáp ứng được yêu cầu của đề tài. Kết quả khảo sát bước đầu cho những đánh giá sự phù hợp và những hạn chế khó khăn trong quá trình triển khai mô hình làm cơ sở phát triển các mô hình canh tác lúa sử dụng phân bón hữu cơ để giảm dần và thay thế cho các loại phân hóa học, giúp cây lúa phát triển tốt, cải thiện môi trường đất, nước, giảm ô nhiễm môi trường, hướng tới sản xuất nông nghiệp bền vững, tạo ra sản phẩm lúa gạo an toàn, chất lượng cao. Nhóm nghiên cứu đã triển khai xây dựng được 05 mô hình sản xuất lúa Séng cù theo hướng hữu cơ với tổng quy mô 400 ha tại các huyện trên địa bàn tỉnh Hải Dương cũ (nay là thành phố Hải Phòng) như: Cổ Bì - Bình Giang; Chí Minh - Tứ Kỳ, Chí Minh - Chí Linh; Đồng Lạc - Chí Linh và Lạc Long - Kinh Môn với tổng diện tích là 400 ha cùng 68 69 với 1.064 lượt hộ nông dân tham gia triển khai thực hiện.

Tình hình sinh trưởng, phát triển của giống lúa Séng cù cho thấy, giống lúa Séng cù có thời gian sinh trưởng thuộc nhóm ngắn ngày, 128 – 133 ngày trong vụ Xuân, 105-110 ngày trong vụ Mùa; tương đương với đối chứng BT7. Đặc điểm nổi bật của giống lúa Séng cù là cứng cây, bông to và dài hơn BT7, số lượng hạt/bông, khối lượng 1000 hạt lớn là ưu điểm để cho tiềm năng năng suất cao. Về đặc điểm nông, sinh học lúa Séng cù có dạng hình cây gọn đẹp, cứng cây, chiều cao trung bình từ 105 – 110 cm; lá đòng đứng, cứng, bản lá và chiều lá đòng dài hơi BT7 ở cả hai điều kiện canh tác; Có thời gian sinh trưởng và chiều cao cây tương đương với đối chứng BT7. Thời gian hạt vào chắc khá nhanh 25 ngày. Dạng hình gọn, phiến lá màu xanh, vỏ trấu màu vàng sáng và có bông dài (23 – 25 cm) dài hơn giống lúa BT7 (18 - 23 cm). So sánh các đặc điểm của giống lúa Séng cù được canh tác theo hai quy trình (theo hướng hữu cơ và thông thường), cụ thể là chiều cao cây của giống lúa Séng cù khi canh tác theo hướng hữu cơ cho chiều cao cây thấp hơn so với phương thức canh tác thông thường. Giống có chiều dài bông tương đương ở cả hai phương thức canh tác. Số hạt /bông cũng tương đương nhưng tỷ lệ hạt lép thấp hơn so với mô hình canh tác thông thường. Mô hình sản xuất Séng cù theo hướng hữu cơ cây sinh trưởng khỏe, bản lá dày xanh, tỷ lệ đậu hạt cao, ít sâu bệnh so với mô canh tác thông thường cây yếu, lá mỏng, tỷ lệ lép cao, bị nhiều loài sâu bệnh hại, mật độ và tỷ lệ hại cao. Qua đánh giá một số đặc điểm nông sinh học cho thấy, giống lúa Séng cù sinh trưởng, phát triển tốt thích ứng tốt với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng trên địa bàn tỉnh Hải Dương (nay là thành phố Hải Phòng), giống lúa thay đổi theo chiều hướng có lợi cho năng suất cao hơn khi canh tác theo hướng hữu cơ. Kết quả thống kê năng suất các mô hình đề tài đều đạt và vượt so với mục tiêu đề ra. Trung bình đạt 6,0-6,5 tấn/ha trong vụ xuân và 4,7-5,4 tấn/ha trong vụ mùa, hiệu quả kinh tế vượt đối chứng BT7 là 15,5-28,7% và mô hình Séng cù canh tác vô cơ 15,2-28,9%. Với giá bán thóc khô dao động từ 14.000 – 16.000 đồng/kg. Sản xuất 1 ha lúa Séng cù theo hướng hữu cơ thu được lãi ròng dao động từ 34,0-61,3 triệu đồng/ha cao hơn so với khi canh tác giống BT7 chỉ đạt 28,4-49,6 triệu đồng/ha, cùng giống Séng cù 26,8-53,9 triệu đồng/ha trong điều kiện canh tác vô cơ. Trong 2 năm, triển khai mô hình đã thu được tổng sản lượng Séng cù thương phẩm là 2.368,75 tấn, Công ty TNHH Sea Success và HTX dịch vụ đã kết nối tiêu thụ được 1.501,5 tấn, chiếm 63,4% sản lượng từ mô hình, phần còn lại được người dân sử dụng cho gia đình. Như vậy, mô hình sản xuất giống lúa Séng cù thương phẩm theo hướng hữu cơ góp phần giảm chi phí, tăng giá bán do có liên kết sản xuất và tiêu thụ với doanh nghiệp nên lợi nhuận mang lại cao hơn so với phương thức truyền thống. Bên cạnh đó, kết quả phân tích mẫu đất và nước tại các địa điểm triển khai không phát hiện kim loại nặng và vi sinh vật độc hại vượt mức cho phép làm cơ sở phát triển các mô hình canh tác lúa sử dụng phân bón hữu cơ để giảm dần và thay thế cho các loại phân hóa học, giúp cây lúa phát triển tốt, cải thiện môi trường đất, nước, giảm ô nhiễm môi trường, hướng tới sản xuất nông nghiệp bền vững, tạo ra sản phẩm lúa gạo an toàn, chất lượng cao.

Từ việc triển khai theo dõi, đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, năng suất, các yếu tố cấu thành năng suất của giống lúa đặc sản Séng cù trong quá trình triển khai mô hình giai đoạn 2023-2025. Nhóm nghiên cứu đã tổng hợp kết quả triển khai trong vụ xuân, mùa các năm cho thấy mức phân bón phù hợp cho giống lúa Séng cù với nền phân bón: 2.000 kg phân hữu cơ vi sinh + 200 kg phân lân nung chảy + 500 kg phân hữu cơ sinh học + phân hữu cơ bón lá (4 lần/vụ). Mật độ cấy thích hợp cho giống lúa Séng cù khi cấy với mật độ 26 - 28 khóm/m2 đối với phương thức mạ khay, cấy máy, cấy mạ sân với mật độ từ 30 – 32 khóm/m2, và 40- 45 khóm/m2 đối với gieo thẳng. Thời vụ thích hợp cho giống lúa Séng cù trong vụ xuân: Gieo thẳng từ 10/2 - 20/2; Gieo mạ sân trên nền đất cứng, mạ khay cấy máy từ 01/02 – 10/2; trong vụ mùa: Gieo thẳng từ 20/6 - 30/6; Gieo mạ sân trên nền đất cứng, mạ khay cấy máy từ 10/6 – 20/6 cho năng suất thực thu đạt cao nhất. Nhóm nghiên cứu đã tổ chức được 10 lớp tập huấn kỹ thuật cho 500 lượt hộ nông dân tham gia mô hình. Thông qua các lớp đào tạo, tập huấn, bà con nông dân đều nắm vững kiến thức phục vụ tốt cho các hoạt động triển khai mô hình. Tổ chức 03 hội thảo đầu bờ với 150 đại biểu tham dự, giới thiệu mô hình sản xuất lúa Séng cù thương phẩm theo hướng hữu cơ nhằm mở rộng sản xuất.

Các kết quả của đề tài sẽ là cơ sở để tiến hành phát triển mở rộng diện tích sản xuất lúa Séng cù thương phẩm theo hướng hữu cơ đáp ứng nhu cầu sản xuất lúa gạo đặc sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng và địa phương lân cận.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.