Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 4105
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Nghiên cứu xây dựng mô hình nuôi kết hợp cá hói, tôm sú và cua biển tại Hải Phòng (09/09/2023)

Nuôi kết hợp là một hình thức nuôi phổ biến hiện nay, nuôi kết hợp giúp nâng cao tối đa hiệu suất sử dụng mặt nước. Trong các mô hình nuôi kết hợp, nguồn dinh dưỡng được cung cấp sẽ tạo nên một chu trình khép kín giữa các vật nuôi, qua đó có thể hạn chế được chất thải và sự ô nhiễm môi trường. Ngoài ra một lượng lớn chất thải của đối tượng nuôi này sẽ là nguồn thức ăn rất tốt cho đối tượng kia bằng hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua một đối tượng khác từ đó làm sạch môi trường nước và giảm ô nhiễm ao nuôi.

Với mục tiêu nhằm tìm ra mô hình nuôi hiệu quả, an toàn, giúp cải thiện đáng kể môi trường ao nuôi, hạn chế dịch bệnh, giảm chi phí đầu tư và sức lao động, tăng sản lượng thu hoạch, đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần phát triển nghề nuôi thủy sản theo hướng ổn định và bền vững, Viện Nghiên cứu Hải sản đã đề xuất và được Sở Khoa học và Công Hải Phòng phê duyệt thực hiện đề tài khoa học và công nghệ cấp thành phố: “Nghiên cứu xây dựng mô hình nuôi kết hợp cá hói (Scatophagus argus), tôm sú (Penaeus monodon) và cua biển (Scylla serrata)”,đề tài do Thạc sỹ Đỗ Mạnh Dũng làm chủ nhiệm.

Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn xây dựng mô hình thực nghiệm tại cơ sở nuôi trồng thủy sản Ngọc Xuyên – quận Đồ Sơn (thành phố Hải Phòng) với quy mô 2 ao có diện tích 1.000 m²/ao và 2 ao có diện tích 2.000 m²/ao. Ao nuôi thương phẩm được cải tạo và gây màu trước khi thả giống: Bón vôi bột (CaO) với lượng 200-500 kg/ha kết hợp với phơi khô ao từ 5-7 ngày; Lấy nước vào ao có độ mặn: 10-20‰, qua lưới lọc 2a = 1 mm đạt mức nước 0,8 - 1,0 m; sau đó diệt khuẩn, diệt tạp bằng hoá chất Saponin (10 kg/1.000 m3); Sau thời gian xử lý nước từ 3-5 ngày, tiến hành gây màu nước bằng cách: Cho 10 kg mật rỉ đường, 10 kg cám gạo, 100 g men bánh mỳ vào thùng nhựa chứa 100 lít nước, ủ 24 giờ, tạt xuống ao vào buổi sáng (dùng cho 1.000 m3), ngày hôm sau đánh men vi sinh, sau 5 ngày làm lặp lại; Sau thời gian gây màu cho ao nuôi và kiểm tra các chỉ tiêu môi trường ổn định (như: pH:7,5-8,5; độ trong: 40-50cm;...) từ 3-5 ngày thì tiến hành cấy rong câu vào ao nuôi với mật độ từ 0,6-0,8 kg/m2 (rong câu đang ở pha sinh trưởng), mục đích nhằm hấp thụ muối dinh dưỡng trong ao và cung cấp thức ăn cho cá hói. Khi các yếu tố môi trường ổn định như: độ pH (7,5-8,5), độ mặn (10-20‰), nhiệt độ (20-30oC), độ trong (30-50 cm), thì tiến hành thả giống. Theo mô hình, tôm sú giống (2 cm/con) được thả nuôi với mật độ 8 con/m², cua biển giống (1 cm/con), thả nuôi với mật độ 0,5 con/m²; cá hói (6,0-8,0 cm/con) thả nuôi với mật độ 1 con/m².

Trong quá trình nuôi thực nghiệm nuôi kết hợp tôm, cua, cá hói, nhóm triển khai nghiên cứu nhận thấy:

- Khi nuôi kết hợp ba đối tượng tôm, cua, cá hói trong một ao, cua biển đóng vai trò ăn các loại mối tanh (cá tạp, don, dắt, trai, ốc, còng, cáy), đồng thời cũng có thể ăn cả mùn bã thực vật hoặc một phần thức ăn công nghiệp của tôm. Từ đó hạn chế lượng thức ăn dư thừa, ngăn ngừa sự gia tăng chất hữu cơ và hiện tượng phú dưỡng trong ao.

- Cá hói sẽ ăn tổng hợp những loại mùn bã hữu cơ ở đáy ao, các loại côn trùng, giáp xác, thậm chí ăn phân của những động vật khác, qua đó góp phần làm giảm ô nhiễm nguồn nước dưới đáy ao.

- Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn được loại thức ăn phù hợp cho cá hói, đó là rong và tảo. Do vậy sẽ giảm được nguy cơ tảo bùng phát làm biến động các yếu tố môi trường, đặc biệt là vào mùa nắng nóng khi quá trình quang hợp của tảo diễn ra mạnh...

Trải qua 5 tháng thực nghiệm, đề tài mang lại nhiều kết quả khả quan, sản lượng tôm đạt 1,2 tấn/ha, chiều dài cá thể đạt 17,2 cm/con; khối lượng trung bình là 36,5 g/con; tỷ lệ sống đạt 44,8%; hệ số thức ăn là 1,52; năng suất đạt 1,29 tấn/ha/vụ. Tương tự, đối với cua biển, chiều dài cua đạt 12,2 cm/con; khối lượng 335,5 g/con; tỷ lệ sống đạt 33,5%; hệ số thức ăn là 11,9 và năng suất đạt 0,56 tấn/ha/vụ. Với cá hói, sau 8 tháng nuôi, chiều dài: 17,5 cm/con; khối lượng: 239,2 g/con; tỷ lệ sống: 66,3%; năng suất đạt: 1,58 tấn/ha/vụ. Trong phạm vi đề tài, lợi nhuận trung bình đạt 378.220.000 đồng/ha. Đặc biệt là tỷ lệ sống của cá, tôm và cua đều ở mức cao nhờ môi trường nuôi luôn ổn định.

Trải qua 2 năm thực hiện, nhóm nghiên cứu đã xây dựng thành công mô hình nuôi kết hợp cá hói, tôm sú, cua biển góp phần tạo sự cân bằng hệ sinh thái, giúp người nuôi gia tăng giá trị lợi nhuận thu được trên cùng một diện tích. Mô hình nuôi kết hợp tôm sú, cua biển, cá hói rất thích hợp với các ao đất vùng triều trong điều kiện môi trường nước mất cân bằng sinh thái, phương tiện thiết bị kiểm tra hạn chế. Với phương thức nuôi kết hợp như mô hình này, khả năng rủi ro đối với bà con nuôi trồng thủy sản ở ao đất vùng triều là thấp nhất. Kết quả của đề tài mang lại nhiều giá trị tích cực về kinh tế, xã hội và môi trường. Cụ thể:

- Hiệu quả về môi trường đã góp phần phát triển ngành thủy sản theo hướng hiệu quả, bền vững, an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn lợi thủy sản. Đồng thời chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống dịch bệnh thủy sản, giám sát môi trường, an toàn thực phẩm ngay trong quá trình nuôi. Phát triển các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, theo hướng ứng dụng đặc tính của mỗi loài thủy sản nhằm tăng năng suất, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.

- Nhờ mô hình nuôi mới kết hợp cả 3 loài trên cùng một diện tích ao, nên chi phí thức ăn cho quá trình nuôi giảm do các đối tượng nuôi bổ trợ, sử dụng lại thức ăn thừa của nhau. Ngoài ra, người nuôi cũng sẽ tiết kiệm được chi phí kiểm soát dịch bệnh nhờ đặc tính tương hỗ của mỗi cá thể, góp phần hạn chế dịch bệnh, cải thiện môi trường nước.  Có thể nói, mô hình nuôi của đề tài sẽ giúp các hộ dân có diện tích nuôi nhỏ tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất.

- Hiệu quả của mô hình nuôi mới đã được hội đồng khoa học đánh giá cao về tính cấp thiết và khả năng nhân rộng trong thực tế, góp phần nâng cao giá trị lợi nhuận thu được, bảo vệ hệ sinh thái bền vững cho người nuôi.

Là một thành phố ven biển, Hải Phòng có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển nuôi trồng thủy sản với tổng diện tích nuôi trồng khoảng 42.000 ha. Trong đó, nước ngọt chiếm 10.200 ha (24%), nước lợ chiếm 14.400 ha (36%) và nước mặn là 17.400 ha chiếm 40%. Đặc biệt, hệ thống sông ngòi của Hải Phòng có mật độ khá cao được hình thành bởi các hệ thống sông chính là sông Bạch Đằng, Đá Bạc, Văn Úc, cửa sông Thái Bình… đặc điểm của các sông khá phức tạp, với dòng chảy chậm, lượng phù sa lớn, thường tạo thành những bãi bồi, đầm nước hoặc vùng trũng ven sông thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Tại Hải Phòng, mô hình nuôi kết hợp cá hói, tôm sú và cua biển đã được nhân rộng cho các hộ dân và áp dụng các tiêu chuẩn chứng nhận thực hành nông nghiệp tốt trong nuôi trồng thủy sản.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài tại Trung tâm Thông tin, Thống kê khoa học và công nghệ Hải Phòng; 

Đơn vị có nhu cầu chuyển giao công nghệ sản xuất xin liên hệ Viện Nghiên cứu Hải sản, Số 224 Lê Lai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng./.