Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 2682
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin ứng dụng kết quả nhiệm vụ KH&CN

Đánh giá tổng thể chất lượng môi trường nước tại các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung ở Hải Phòng và đề xuất các giải pháp quản lý môi trường nước trong nuôi trồng thuỷ sản theo hướng bền vững (18/12/2023)

Hải Phòng với đường bờ biển dài khoảng 125km, có 5 cửa sông chính đổ ra biển, có 8/15 huyện tiếp giáp với biển và 2 huyện đảo. Do vậy, Hải Phòng có nguồn tài nguyên biển khá phong phú, đặc biệt là các hệ sinh thái biển có giá trị cao đều như rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển, rạn đá, tùng áng, bãi triều, cửa sông và vùng đáy biển rộng lớn… là yếu tố thuận lợi cho phát triển NTTS. Tiềm năng diện tích NTTS của Hải Phòng khoảng 45.000 ha, trong đó diện tích NTTS nước ngọt là 13.000 ha chiếm 30%; nước lợ, mặn là 32.000 ha chiếm 70%; Hải Phòng hiện trở thành địa phương nuôi trồng và cung cấp thủy sản biển trọng điểm của vùng châu thổ sông Hồng. Diện tích NTTS năm 2016 là 11.748,1ha (giảm 2.219,9ha so với năm 2006, giảm bình quân 3,2%/năm). Diện tích nuôi thủy sản thâm canh 2.355,1ha, chiếm 20% tổng diện tích NTTS, tăng 2.231,1ha so với năm 2006 (năm 2006 có 124ha), tốc độ tăng bình quân 14,4%/năm. Sản lượng thủy sản nuôi năm 2016 đạt 49,44nghìn tấn, tăng 10.925,60tấn so với năm 2006, tăng bình quân 2,53%/năm. Năng suất nuôi bình quân đạt 4,20tấn/ha (cá rô phi 8,4tấn/ha, tôm thẻ chân trắng 10,25tấn/ha). Các đối tượng15 nuôi có giá trị kinh tế cao, có khả năng xuất khẩu như tôm thẻ, cá rô phi… đang được khuyến khích phát triển. Hải Phòng có lợi thế về năng suất NTTS so với các tỉnh thành lân cận, đặc biệt là tôm nuôi.

 

Những năm gần đây, thời tiết diễn biến khó lường, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ô nhiễm môi trường từ nguồn chất thải luôn có nguy cơ gia tăng; hiện tượng chết hàng loạt của đối tượng nuôi và tình hình dịch bệnh trên thủy sản nuôi phát triển ngày càng phức tạp. Chính vì vậy cần phát triển NTTS bền vững và hiệu quả, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường và đảm bảo an ninh thực phẩm. Để đạt được mục tiêu này, Trung tâm Quan trắc môi trường biển đã triển khai đề tài “Đánh giá tổng thể chất lượng môi trường nước tại các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung ở Hải Phòng và đề xuất các giải pháp quản lý môi trường nước trong nuôi trồng thuỷ sản theo hướng bền vững” do Trương Văn Tuân làm chủ nhiệm. Đề tài được Hội đồng tư vấn, đánh giá nghiệm thu tại Sở Khoa học và Công nghệ ngày 15/5/2020. Đề tài được triển khai nhằm đánh giá được hiện trạng và biến động chất lượng môi trường nước tại một số vùng NTTS tập trung; các yếu tố tác động đến nguồn nước phục vụ NTTS; biến động và tải lượng ô nhiễm phát sinh trong nước thải từ một số mô hình nuôi và đề xuất được các giải pháp quản lý môi trường nước trong NTTS theo hướng bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực NTTS và năng lực quản lý môi trường tại địa phương.

Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học quan trọng cho việc lập kế hoạch, quy hoạch phát triển nghề NTTS tại địa phương. Một số kết quả nghiên cứu của đề tài được công bố trên các hội nghị/hội thảo nhằm chia sẻ kinh nghiệm và triển vọng hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu.

Nhóm nghiên cứu đề tài đã tiến hành xác định 595 hộ (tổ chức, cá nhân) tham gia hoạt động NTTS với diện tích 375 ha tại vùng nuôi nước ngọt tập trung; và 1.624 hộ với diện tích 2.146 ha tại vùng nuôi nước lợ tập trung ở Hải Phòng. Hình thức nuôi quảng canh (bao gồm: QCCT, QCTT) chiếm tỉ lệ lớn nhất trong cả 2 loại hình nuôi nước ngọt và nước lợ. Hình thức nuôi thâm canh và bán thâm canh cũng đang được triển khai trong vùng nuôi tuy nhiên số hộ và diện tích nuôi có sự thay đổi đối với mỗi loại hình nuôi, cáchình thức nuôi khác như VietGAP, nuôi sinh thái,… cũng đang được triển khai tại các khu vực nuôi tại vùng NTTS tập trung ở Hải Phòng. Cá rô phi, cá trắm, cá trôi, cá mè, cá chép, tôm càng xanh… là đối tượng nuôi ở loại hình nuôi nước ngọt; và tôm he chân trắng, tôm sú, cua… là đối tượng nuôi ở loại hình nuôi nước lợ. Nguồn nước cấp của vùng nuôi nước ngọt từ sông Văn Úc, sông Thái Bình, sông Hóa; và từ nguồn nước lợ ven biển, cửa sông Lạch Tray, cửa sông Thái Bình, cửa sông Văn Úc cho vùng nuôi nước lợ.

Chất thải sinh hoạt từ khu vực dân cư xung quanh, từ nguồn hóa chất BVTV sử dụng trong nông nghiệp và chất thải (nước thải, bùn thải) từ chính nghề nuôi là các yếu tố chính gây ô nhiễm nguồn nước phục vụ NTTS tại các vùng nuôi tập trung; bên cạnh đó còn do các yếu tố như ảnh hưởng từ bãi rác, từ chất thải của khu công nghiệp và từ các hoạt động dân sinh khác…

Đánh giá chất lượng nguồn nước cấp tại vùng nuôi nước ngọt tập trung, hàm lượng N-NO2-, N-NH4+ và P-PO43- đều vượt GHCP và có xu hướng tăng dần về cuối vụ nuôi. Hàm lượng Pb, Cd, Hg và tổng hóa chất BVTV vẫn nằm trong GHCP theo QCVN. Xác định được 23 loài tảo gây hại thuộc 3 ngành tảo với mật độ trung bình đạt 166.993 tb/l. Mật độ vi sinh vật trong nước khá cao, mật độ tổng Coliform trung bình đạt 117 CFU/ml, vi khuẩn Aeromonas tổng số đạt 31 CFU/100ml và vi khuẩn Streptococcus sp đạt 54 CFU/100ml. Thông qua chỉ số tai biến môi trường (RQtt), chất lượng môi trường trong nguồn nước cấp tại vùng nuôi nước ngọt tập trung ở Hải Phòng đã bị ô nhiễm đáng kể, chỉ số dao động từ 1,00 – 1,38 khi đánh giá TCVN và nằm ở mức nghiêm trọng nhất - mức Ảnh hưởng tai biến môi trường.

Đối với nguồn nước cấp tại vùng nuôi nước lợ tập trung, hàm lượng N-NH4+ và P-PO43- đều vượt GHCP theo TCVN và tiêu chuẩn ASEAN, có xu hướng tăng dần về cuối vụ nuôi và luôn cao tại các khu vực có mật độ nuôi tập trung lớn như Tân Thành, Hải Thành, Tiên Hưng; có giá trị thấp hơn tại các khu vực có nhiều mô hình nuôi như quảng canh, bán thâm canh. Hàm lượng Pb, Cd As, Hg và tổng hóa chất BVTV gốc Clo có trị số khá thấp, nằm trong GHCP theo TCVN. Xác định được 33 loài tảo hại thuộc 3 ngành tảo, mật độ vi sinh vật khá cao, giá trị trung bình của tổng Coliform đạt 132 CFU/ml, vi khuẩn Vibrio tổng số đạt 115 CFU/ml và vi khuẩn Vibrioparahaemolyticus đạt 19 CFU/ml. Có thể thấy, chất lượng môi trường trong nguồn nước cấp tại vùng nuôi nước lợ tập trung ở Hải Phòng cũng đã bị ô nhiễm, chỉ số RQtt dao động từ 0,93 – 2,22 theo QCVN 10-MT:2015/BTNMT, nằm ở mức Nguy cơ tai biến môi trường đến Ảnh hưởng tai biến môi trường.

Giữa một số mô hình nuôi cá nước ngọt khác nhau hiện đang được triển khai tại địa phương thì mô hình nuôi Thâm canh - Công nghiệp đóng góp tải lượng ô nhiễm lớn nhất, sau đó đến mô hình Chăn + Nuôi kết hợp (VAC); của mô hình QCCT và QCTT cho tải lượng ô nhiễm thấp nhất. Đối với loại hình nuôi nước lợ, mô hình nuôi tôm Công nghiệp kiểu Nhà bạt (Thâm canh) đóng góp tải lượng ô nhiễm lớn nhất, mô hình QCCT đóng góp tải lượng ô nhiễm thấp nhất và của 2 mô hình nuôi Bán thâm canh (nuôi tôm kiểu đáy kín và kiểu đáy hở) đóng góp tải lượng ô nhiễm tương đương.

Dựa trên hiện trạng nghề nuôi, các yếu tố tác động đến nguồn nước, chất lượng môi trường nguồn nước cấp và tải lượng ô nhiễm đối với mỗi hình thức nuôi trong đối với mỗi loại hình nuôi (nước ngọt, lợ) thuộc vùng NTTS tập trung tại địa phương đã đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý môi trường nước trong NTTS theo hướng bền vững phù hợp với điều kiện thực tế của Hải Phòng. 

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài tại Trung tâm Thông tin, Thống kê khoa học và công nghệ Hải Phòng./.