Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 8019
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Xây dựng quy trình nhân giống san hô trên bể và thử nghiệm trồng san hô tái tạo, phục hồi hệ sinh thái rạn san hô tại Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ (05/06/2024)

Hệ sinh thái rạn san hô được coi là hệ sinh thái đặc thù của các vùng biển nhiệt đới, nó có giá trị rất quan trọng về đa dạng sinh học. Là nơi sinh cư, cung cấp kiếm ăn cho các loài động, thực vật biển và là điều kiện duy trì, phát triển nguồn lợi sinh vật biển. Với sự thu hút đa dạng các nhóm loài sinh vật biển cư trú và sinh sống, rạn san hô được coi là hệ sinh thái có năng suất bậc nhất trên thế giới. Giá trị, lợi ích của hệ sinh thái này là cung cấp vật chất và năng lượng cho thủy vực, tạo nơi cư trú cho thế giới sinh vật biển, cung cấp nguồn lợi thủy sinh có giá trị cao, cung cấp nơi sinh sản và ương giống của thủy sinh vật, bảo vệ bờ biển và tạo cảnh quan kỳ thú cho du lịch và giải trí. Hệ sinh thái rạn san hô có mối quan hệ và tầm ảnh hưởng rất lớn tới điều kiện tự nhiên, nguồn lợi thủy sản, phát triển kinh tế - xã hội, du lịch... đối với mỗi quốc gia, địa phương và cộng đồng dân cư ven biển.

Đảo Bạch Long Vĩ là một huyện đảo thuộc thành phố Hải Phòng. Tuy là một đảo nhỏ trong hệ thống 2.376 hòn đảo ven bờ, nhưng Bạch Long Vĩ có vị trí chiến lược và tầm quan trọng đặc biệt về quốc phòng - an ninh và trong phát triển kinh tế biển. Khu hệ sinh vật quanh đảo phát triển rất phong phú dựa trên sự tồn tại của hệ sinh thái rạn san hô và được đánh giá là một trong những vùng rạn tốt nhất và quy mô lớn nhất ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, Việt Nam. Đến thời điểm nghiên cứu, đã thống kê được 94 loài san hô thuộc 27 giống, 12 họ. Về phân bố thànhphần loài và độ phủ, rạn ở phía Tây Bắc đảo có số lượng loài cao hơn, 81 loài, độ phủ đạt tới 94% bề mặt đáy ở vùng sát bờ. Số lượng loài và độ phủ giảm dần về hai phía quanh đảo, thấp nhất là phía Nam đảo mới ghi nhận được 16 loài, độ phủ chỉ đạt 2,6%. Tuy nhiên, từ các năm trước đây do ngư dân khai thác thủy sản trong khu rạn ven đảo bằng các phương thức gây hại cho san hô như: Lưới kéo, lưới giã, mìn, hóa chất, xung điện, lặn dẫm đạp lên rạn để săn bắt thủy sản.... dẫn đến sự suy giảm chất lượng của hệ sinh thái này nghiêm trọng. Theo các kết quả khảo sát cho thấy độ phủ của san hô cứng tại Bạch Long Vĩ suy giảm từ 30,60% xuống 26,88%.

Trước thực tế đó, năm 2019, Ban Quản lý Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ được Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng giao thực hiện đề tài KH&CN cấp thành phố: Nghiên cứu xây dựng quy trình nhân giống san hô trên bể và thử nghiệm trồng san hô tái tạo, phục hồi hệ sinh thái rạn san hô tại Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ. Đề tài do ThS Lương Hữu Toàn làm chủ nhiệm.

Đề tài đã tiến hành nghiên cứu khảo sát hiện trạng rạn san hô và lựa chọn một số loài san hô phục vụ công tác nghiên cứu, phục hồi. Mẫu sử dụng trong nghiên cứu là 5 loài san hô cứng (gồm 2 loài san hô cành, 2 loài san hô bàn và 1 loài san hô phủ) có kích thước từ 1,5-3,5 cm. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện nhân giống trong môi trường nhân tạo qua 02 lần thực nghiệm, đồng thời làm thí nghiệm khảo sát các nội dung như: Đánh giá biến động độ phủ; đánh giá một số nguyên nhân tác động; nghiên cứu địa điểm, điều kiện môi trường và loài san hô trồng phục hồi trước khi san hô được mang đi trồng phục hồi tại 02 điểm Tây Bắc và Tây Nam trên đảo Bạch Long Vĩ. Tiến hành nghiên cứu kỹ thuật nhân giống san hô trong môi trường nhân tạo. Kỹ thuật này có ưu điểm tạo ra số lượng giống gấp nhiều lần khi sử dụng cùng một lượng san hô giống ban đầu từ tự nhiên. Việc nghiên cứu thành công kỹ thuật nhân giống san hô trong môi trường nhân tạo giúp chủ động về nguồn giống và có thể triển khai phục hồi rạn san hô trên quy mô lớn hơn, đồng thời giảm áp lực sử dụng nguồn giống san hô tự nhiên.

Tách mảnh san hô để tiến hành bố trí các thí nghiệm.

Sau 24 tháng triển khai, đề tài đã đạt được kết quả cụ thể như sau:

- Đã nghiên cứu tổng quan đầy đủ các tài liệu, số liệu, dữ liệu có độ tin cậy cao liên quan đến vấn đề nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam. Đã tổng hợp, xử lý thông tin, số liệu cần thiết làm cơ sở cho nghiên cứu của đề tài.

- Kết quả nghiên cứu, khảo sát hiện trạng rạn san hô: Đã xác định được 95 loài san hô trên tổng số 29 giống, 12 họ. Độ phủ san hô trung bình 22,36%. Đã lựa chọn được 05 loài san hô đưa vào nghiên cứu nhân giống là: Acropora hyacinthus; Acropora pulchra; Acropora sp1; Montipora turtlensis; Montipora hoffmeisteri (02 loài san hô cành, 02 loài san hô bàn và 01 loài san hô phủ). Đã nghiên cứu lựa chọn được 02 địa điểm trồng phục hồi là: Vị trí 1, phía Tây Nam đảo (kinh độ 107° 43' 5,7"; vĩ độ 20°08' 2,8"); vị trí 2, phía Tây Bắc đảo (kinh độ 107° 43' 15,2"; vĩ độ 20° 07' 34,6"). Đã nghiên cứu, đánh giá hiện trạng các yếu tố môi trường cơ bản khu vực biển cần phục hồi. Các yếu tố môi trường đều nằm trong giới hạn theo QCVN 10 – MT: 2015/BTNMT.

- Kết quả kỹ thuật khai thác san hô, vận chuyển về trại sản xuất giống và thuần dưỡng san hô nguồn giống trong môi trường nhân tạo đạt tỷ lệ sống sau thuần dưỡng là 100%. Kết quả nghiên cứu thiết kế giá thể phục vụ ương nuôi giống nhân tạo đã thiết kế được 2.260 giá thể đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Kết quả nghiên cứu tách mảnh san hô giống đã tách được 2.260 mảnh san hô giống kích thước 1,5 – 3,5 cm để phục vụ các đợt thí nghiệm, thực nghiệm. Nghiên cứu ảnh hưởng của keo kết dính đến tỷ lệ sống của san hô đạt trung bình 77,8% - 88,89%, lựa chọn được 01 loại keo phù hợp để kết dính san hô với giá thể đạt tỷ lệ sống cao.

- kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của kích thước giống san hô đến tỷ lệ sống của san hô giống: Đã lựa chọn được nhóm kích thước san hô giống là 2,5±0,5 cm thích hợp để nhân giống và đạt tỷ lệ sống trung bình 90%. Nghiên cứu ảnh hưởng loại giá thể đến sinh trưởng của san hô đã lựa chọn được loại giá thể thích hợp là mảnh kim loại, có tăng trưởng tốt và tỷ lệ sống đạt 80%. Đã nghiên cứu đưa ra được các biện pháp quản lý yếu tố môi trường, thức ăn phù hợp với điều kiện sống của san hô trong quá trình nhân giống trên bể. Từ các kết quả thí nghiệm đánh giá các chỉ tiêu ảnh hưởng của keo kết dính, giá thể, kích thước đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của san hô. Đề tài tiến hành lựa chọn các nghiệm thức tốt nhất về loại keo, giá thể, kích thước và tiến hành thực nghiệm nhân giống san hô trên bể, kết quả thực nghiệm cho thấy tỷ lệ sống đạt rất tốt, 81,65% (chỉ tiêu đề ra là 70%), các tỷ lệ tăng trưởng về khối lượng và kích thước đều đạt kết quả tốt. Từ các kết quả nghiên cứu thí nghiệm, thực nghiệm, Ban chủ nhiệm đề tài đã hoàn thiện và đề xuất 01 Quy trình nhân giống san hô trên bể tại Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ nhằm tái tạo, phục hồi hệ sinh thái rạn san hô.

- Kết quả môi trường quan trắc tại địa điểm trồng phục hồi và rạn lân cận đều thích hợp cho san hô phát triển. Độ phủ của san hô tự nhiên tại các khu vực trồng phục hồi dao động 9,4% - 12,6%; khu vực rạn lân cận có độ phủ cao hơn dao động 18,8% - 26%. Đã tiến hành 02 đợt trồng phục hồi san hô ngoài tự nhiên (tháng 11/2019 và tháng 5/2020) với tổng số 1.302 mảnh san hô bằng sinh sản nhân tạo trên diện tích 5.100m2, kết quả sau 4 - 5 tháng trồng phục hồi, tỷ lệ sống đạt trung bình 80% (chỉ tiêu đề ra là 70%), tăng trưởng trung bình rất tốt (4,7mm/tháng), độ phủ tăng trưởng trung bình của san hô trồng phục hồi 1,7cm2/tháng. Từ các kết quả trồng phục hồi san hô, Ban chủ nhiệm đề tài đã tiến hành hoàn thiện và đề xuất 01 Quy trình trồng phục hồi san hô ngoài môi trường tự nhiên từ nguồn giống sản xuất nhân tạo.

Kết quả nghiên cứu xây dựng thành công Quy trình nhân giống san hô trên bể và Quy trình trồng phục hồi san hô ngoài môi trường tự nhiên từ nguồn giống nhân tạo là cơ sở rất quan trọng để Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ tiếp tục ứng dụng quy trình trong thời gian tới nhằm phục hồi hệ sinh thái rạn san hô tại khu bảo tồn. Từ cơ sở trên, Ban Quản lý Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ đã kiến nghị UBND thành phố Hải Phòng, các sở ban ngành liên quan quan tâm tạo điều kiện, đầu tư nguồn lực để Ban quản lý Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ tiếp tục triển khai, ứng dụng kết quả nghiên cứu của đề tài trong các năm tiếp theo. 

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài tại Trung tâm Thông tin, Thống kê KH&CN Hải Phòng./.