Liên kết website
Thống kê truy cập
Đang trực tuyến : 26156
Tổng truy cập : 57,998

Thông tin kết quả nhiệm vụ KH&CN

Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nâng cao trữ lượng các-bon trong các thảm thực vật trên địa bàn thành phố Hải Phòng (24/09/2025)

Thành phố Hải Phòng – trung tâm kinh tế ven biển, được dự báo phát thải tới 32,85 triệu tấn COtđ vào năm 2030, cao gấp 4 lần so với hiện tại nếu không kiểm soát. Mặc dù đã ban hành Kế hoạch hành động biến đổi khí hậu, thành phố vẫn chưa có nhiệm vụ xác định, đánh giá trữ lượng các-bon trong thảm thực vật. Bên cạnh đó, Hải Phòng có trên 2.000 loài thực vật, phân bố trên 56.000 ha, gồm rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng ngập mặn, cỏ biển, đất nông nghiệp, cây ăn quả, hoa cảnh... Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu chi tiết về sinh lượng, hàm lượng hay trữ lượng các-bon – điều kiện tiên quyết để xác định khả năng hấp thụ và định giá tín chỉ các-bon theo IPCC (2006). Với mục tiêu thiết lập cơ sở dữ liệu khoa học về các bể chứa các-bon trong thảm thực vật; góp phần xây dựng kế hoạch hành động giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu; hỗ trợ thành phố tiếp cận, tham gia thị trường tín chỉ các-bon, tăng nguồn thu ngân sách và cải thiện sinh kế cộng đồng; hướng tới phát triển bền vững đô thị xanh, thân thiện với khí hậu, phù hợp với mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Năm 2024, thành phố Hải Phòng đã phê duyệt nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ “Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nâng cao trữ lượng các-bon trong các thảm thực vật trên địa bàn thành phố Hải Phòng”. Nhiệm vụ do Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường chủ trì và TS. Cao Văn Lương là chủ nhiệm.

 

Triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu tổng quan về vấn đề lý thuyết liên quan trong và ngoài nước, đánh giá tổng quan và định hướng nghiên cứu. Kết quả cho thấy, hiện trạng dữ liệu về các-bon trên địa bàn thành phố còn nhiều khoảng trống. Cho đến nay, Hải Phòng đã bước đầu thực hiện kiểm kê khí nhà kính cho hơn 100 cơ sở công nghiệp lớn theo quy định quốc gia, tập trung vào nguồn phát thải, nhưng chưa có đánh giá đầy đủ về các bể chứa và hấp thụ các-bon của các hệ sinh thái địa phương. Thành phố có đa dạng các hệ sinh thái: rừng phòng hộ ven biển, thảm cỏ và cây xanh đô thị, vùng nông nghiệp ngoại thành, khu đất ngập nước cửa sông, đầm nuôi trồng thủy sản... Mỗi hệ sinh thái này đều tiềm ẩn khả năng lưu giữ các-bon khác nhau. Việc thiếu dữ liệu định lượng về trữ lượng các-bon trong sinh quyển Hải Phòng dẫn đến hạn chế trong việc hoạch định chiến lược cân bằng phát thải – hấp thụ. Nói cách khác, để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào 2050, Hải Phòng cần biết rõ mình có bao nhiêu “vốn các-bon tự nhiên” có thể dùng để bù đắp phát thải. Đồng thời, cơ hội từ thị trường các-bon đang mở ra, đòi hỏi Hải Phòng phải sẵn sàng về dữ liệu nền. Đây sẽ là cơ sở để xây dựng các dự án tín chỉ các-bon. Bên cạnh đó, Hải Phòng – với vị thế là một trong 5 thành phố trực thuộc trung ương – được kỳ vọng đi đầu trong việc hiện thực hóa cam kết Net Zero 2050 ở cấp địa phương. Trong đó tập trung vào: giảm phát thải CO tại huyện đảo Cát Hải; cắt giảm CO và CH trong giao thông vận tải; và áp dụng biện pháp giảm khí nhà kính trong các lĩnh vực thương mại, du lịch, đô thị. Cùng với đó, Hải Phòng đang chuyển đổi các khu công nghiệp hiện hữu sang mô hình khu công nghiệp sinh thái, thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo, nguyên liệu tái chế và công nghệ các-bon thấp. Những định hướng này cho thấy để hoàn thành mục tiêu, Hải Phòng không chỉ giảm nguồn phát thải mà còn cần tăng cường các bể hấp thụ các-bon tại chỗ. Do vậy, nghiên cứu chuyên sâu về khả năng hấp thụ CO của thảm thực vật địa phương chính là mảnh ghép còn thiếu trong bức tranh tổng thể về chiến lược khí hậu của thành phố.

Đề tài cũng tập trung khảo sát và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng lưu giữ và hấp thụ các-bon hữu cơ trong thảm thực vật tại thành phố Hải Phòng. Năm nhóm đối tượng chính tương ứng với các bể chứa các-bon sinh học và vật lý bao gồm: Sinh khối thực vật phần trên mặt đất (thân, cành, lá, hoa, quả,..); sinh khối thực vật phần dưới mặt đất (thân ngầm, rễ, củ,…); thảm mục thực vật (vật rơi rụng, lá khô, cành mục...); gỗ chết (cây đổ, thân gãy,..); đất/trầm tích trong 30 cm tầng mặt (lớp đất tích lũy vật chất hữu cơ dưới tán cây). Về phạm vi nghiên cứu, đề tài triển khai điều tra và thu thập mẫu tại 483 điểm thực địa, đại diện cho các kiểu sinh cảnh chính trên địa bàn thành phố Hải Phòng, bao gồm: Địa hình đồi núi: Núi Voi (An Lão), Tràng Kênh (Thủy Nguyên), vùng trong/ngoài VQG Cát Bà; hệ sinh thái rừng ngập mặn: Hải Thành, Đại Hợp, Tiên Hưng, Phù Long; vùng triều cửa sông: Lạch Huyện, Nam Triệu, Văn Úc, Lạch Tray, Cửa Cấm, Thái Bình; vùng canh tác nông nghiệp: ruộng lúa, rau màu tại Thủy Nguyên, An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo; thảm thực vật vườn hộ, cây ăn quả: An Dương, Kiến An, Cát Bà; không gian cây xanh đô thị: Công viên, tuyến đường chính như Lê Hồng Phong, Trần Phú, Đinh Tiên Hoàng, quốc lộ 5, quốc lộ 10, DT208, DT353,...Quy mô nghiên cứu của đề tài đã thu thập và xử lý 750 mẫu thực vật được định danh đến cấp loài; 2.400 mẫu sinh khối thực vật (lá, thân, rễ); 1.250 mẫu thảm mục và gỗ chết; 1.875 mẫu đất và trầm tích từ các hệ sinh thái khác nhau. Việc tích hợp dữ liệu định lượng, bản đồ chuyên đề và thống kê từ nguồn chính thống giúp đảm bảo tính hệ thống, đầy đủ và độ tin cậy cao, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho đề xuất các giải pháp quản lý tài nguyên sinh học và điều tiết các-bon tại thành phố Hải Phòng.

Kết quả nghiên cứu hàm lượng, trữ lượng các-bon hữu cơ trong thảm thực vật trên địa bàn Hải Phòng cho thấy tổng lượng các-bon hữu cơ (Corg) của thành phố đạt khoảng 15,9 triệu tấn C, tương đương 58,3 triệu tấn CO, được phân bố trong nhiều thành phần bể chứa sinh học khác nhau: (1)Các bể chứa ổn định/dài hạn chiếm tới 91% tổng lượng CO toàn thành phố (53,09 triệu tCO), bao gồm: Đất và trầm tích (tầng 0–30cm) chiếm hơn 82,6% tổng trữ lượng, là bể chứa các-bon dài hạn quan trọng nhất nhờ khả năng lưu giữ lâu trong điều kiện yếm khí, đặc biệt tại các hệ sinh thái rừng ngập mặn, rừng tự nhiên, và đất nông nghiệp; sinh khối trên và dưới mặt đất của cây lâu năm, rừng tự nhiên, rừng trồng chiếm hơn 4,37 triệu tCO, lưu trữ các-bon bền vững trong sinh khối gỗ lâu năm; gỗ chết và thảm mục rừng là kho các-bon trung hạn có chu kỳ phân hủy chậm, tiếp tục đóng góp hữu cơ vào đất và hỗ trợ cân bằng các-bon. (2)Các bể chứa không ổn định/ngắn hạn khoảng 9% (5,27 triệu tCO),bao gồm: Sinh khối cây ngắn ngày, phụ phẩm nông nghiệp, thực vật thủy sinh có vòng đời ngắn, tốc độ phân hủy cao và dễ tái phát thải khí nhà kính trở lại khí quyển nếu không được quản lý tốt; thảm mục từ cây ngắn ngày hoặc cây bụi/cỏ dại cũng có chu kỳ các-bon ngắn, ít đóng góp vào tích lũy lâu dài. Cơ cấu trữ lượng như vậy cho thấy nếu thành phố tập trung bảo vệ và mở rộng các bể chứa ổn định, đặc biệt là rừng, rừng ngập mặn và đất nông nghiệp các-bon cao, đồng thời kiểm soát tốt các nguồn các-bon ngắn hạn, thì có thể vừa gia tăng tổng lượng CO hấp thụ, vừa giảm phát thải từ sinh khối dễ phân hủy. Nhóm nghiên cứu cũng dựa trên ba kịch bản giá tín chỉ các-bon, giá trị kinh tế ước tính như sau: Kịch bản 1 (giá 5 USD/tCO – thị trường nội địa): bể ổn định trị giá 265,5 triệu USD, bể ngắn hạn 24,1 triệu USD, tổng cộng 290 triệu USD; kịch bản 2 (giá 32 USD/tCO – thị trường quốc tế trung bình): bể ổn định 1,7 tỷ USD, bể ngắn hạn 168,6 triệu USD, tổng cộng 1,87 tỷ USD; kịch bản 3 (giá 61,6 USD/tCO – thị trường EU ETS): bể ổn định 3,27 tỷ USD, bể ngắn hạn 324 triệu USD, tổng cộng 3,59 tỷ USD. Trong đó, bể ổn định chiếm phần lớn giá trị và có thể được chứng nhận quốc tế, tham gia các thị trường tín chỉ các-bon chính thức như REDD+, VCM hay EU ETS. Ngược lại, bể ngắn hạn – gồm sinh khối cây ngắn ngày, phụ phẩm nông nghiệp, thực vật thủy sinh – có giá trị tạm thời, dễ biến động và cần quản lý chặt chẽ để tránh tái phát thải. Cách phân loại này là cơ sở khoa học quan trọng để xác định loại tín chỉ các bon có thể huy động, đảm bảo tín chỉ phát hành ổn định, bền vững và được quốc tế công nhận. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu thành lập bộ bản đồ kỹ thuật số và hệ thống WebGIS được xây dựng không chỉ thể hiện không gian phân bố và mật độ các-bon mà còn tích hợp được thông tin về đặc điểm ổn định/ngắn hạn của từng loại bể chứa. CSDL cho phép người dùng truy vấn nhanh trữ lượng CO ổn định tại từng điểm hoặc khu vực. Các bản đồ tích hợp cho thấy rõ ranh giới và diện tích các vùng có khả năng lưu giữ các-bon lâu dài như: rừng nguyên sinh Cát Bà, rừng ngập mặn Đồ Sơn – Văn Úc, đồng ruộng tại Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, hay đất rừng trồng ở Cát Hải. Hệ thống này sẽ hỗ trợ lập hồ sơ tín chỉ các-bon, báo cáo MRV (đo đạc – báo cáo – thẩm định), và quản lý biến động các-bon theo thời gian cho các chương trình giảm phát thải khí nhà kính.

Kết quả nghiên cứu trên là cơ sở để nhóm nghiên cứu đề xuất nhóm các giải pháp để duy trì và gia tăng trữ lượng các-bon, cần áp dụng phù hợp với từng loại bể chứa: (1) Với bể ổn định/dài hạn: Bảo vệ tuyệt đối rừng tự nhiên, phục hồi rừng ngập mặn và duy trì đất nông nghiệp giàu các-bon hữu cơ; tăng cường rừng trồng cây bản địa lâu năm, thay thế rừng đơn loài bằng rừng hỗn giao để tăng trữ lượng các-bon ổn định; bảo tồn gỗ chết và thảm mục, tránh thu dọn hoặc đốt bỏ ở rừng, công viên, để duy trì chu trình các-bon dài hạn; (2) Với bể ngắn hạn/không ổn định:  Không đốt rơm rạ và phụ phẩm cây trồng; tận dụng phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất năng lượng sinh khối, phân hữu cơ, hoặc phục hồi đất nghèo hữu cơ; quản lý tốt thực vật thủy sinh, tránh để tích lũy thành sinh khối tạm thời rồi phân hủy gây phát thải methane và CO; (3) Hệ sinh thái đô thị (công viên, vườn hoa) nên phát triển thêm tầng cây lâu năm, tăng mật độ cây gỗ lớn để từ bể ngắn hạn (cỏ, hoa) chuyển dần sang bể các bon dài hạn. Như vậy, việc nhận diện và phân biệt rõ bể ổn định và bể không ổn định là cơ sở quan trọng để xây dựng chiến lược hành động phù hợp, có trọng tâm, giúp Hải Phòng đạt được cả mục tiêu phát thải ròng bằng 0 lẫn lợi ích tài chính từ thị trường các-bon.

Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án tại Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Hải Phòng./.